Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 26 tháng 2, 2011

QUÂN CHỦNG PHÒNG KHÔNG - KHÔNG QUÂN
Phòng không-Không quân Việt Nam là một trong ba quân chủng của Quân đội Nhân dân Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng, có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ vùng trời trên lãnh thổ Việt Nam.
Cơ quan chỉ huy là Bộ Tư lệnh Phòng không-Không quân hiện nay:
Tư lệnh: Trung tướng, Tiến sĩ Lê Hữu Đức
Chính ủy: Trung tướng, Tiến sĩ Phương Minh Hòa, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X.
Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng: Thiếu tướng Võ Văn Tuấn.
Phó Chính ủy: Thiếu tướng Nguyễn Kim Cách
Phó Tư lệnh:
Thiếu tướng Nguyễn Văn Thanh
Thiếu tướng Vi Văn Liên
Thiếu tướng Trần Văn Thi.

Quân chủng Phòng không-Không quân Việt Nam có hai lực lượng chính là Bộ đội Phòng không và Bộ đội Không quân.
Binh chủng Tên lửa Phòng không. Thành lập ngày 24 tháng 3 năm 1967. Ngày truyền thống: 24 tháng 7 năm 1965 (ngày ra quân bắn rơi một tốp 3 chiếc máy bay F-4C của Mỹ).
Sư đoàn: 361, 363, 367.

+Binh chủng Tên lửa phòng không là một binh chủng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân, có nhiệm vụ sử dụng tổ hợp tên lửa để tiêu diệt các khí cụ bay của đối phương ở trên không. Binh chủng Tên lửa phòng không có thể tác chiến độc lập hoặc hiệp đồng với các cụm lực lượng phòng không khác và không quân để bảo vệ các trung tâm chính trị, kinh tế, cụm lực lượng vũ trang và các mục tiêu quan trọng khác của đất nước. Binh chủng đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1973.
Ngày truyền thống : 24 tháng 7 năm 1965 (ngày bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên).
Trung đoàn tên lửa đầu tiên
Năm 1958, Bộ Quốc phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt đầu cử hàng trăm cán bộ, chiến sĩ đi học sử dụng vũ khí tên lửa phòng không tại các trung tâm huấn luyện quân sự của Liên Xô ở Leningrad, Kiev, Odessa, Minsk...
Ngày 10 tháng 7 năm 1963, một đơn vị đặc biệt mang phiên hiệu Trung đoàn 228B (trùng tên với trung đoàn cao xạ 228 để giữ bí mật) được thành lập. Cán bộ, chiến sĩ được lựa chọn kỹ từ khắp các đơn vị trong toàn quân, một số đông kỹ sư vô tuyến điện, hoá học, cán bộ kỹ thuật từ Trường đại học Bách khoa, các trường trung cấp kỹ thuật và rất nhiều học sinh phổ thông cấp III được điều động về xây dựng trung đoàn.
Ngày 7 tháng 1 năm 1965, Bộ Quốc phòng ra quyết định số 03/QĐ-QP thành lập Trung đoàn 236 là trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên thuộc Bộ tư lệnh Phòng không - Không quân (Để giữ bí mật, trong quyết định ghi: Trung đoàn cao xạ 236).
Từ giữa tháng 3 năm 1965, phần đông cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 228B, những cán bộ từ Liên Xô trở về, hàng trăm chiến sĩ được lựa chọn kỹ với chất lượng cao được tập trung về xây dựng Trung đoàn tên lửa 236. Trong biên chế của trung đoàn có các cơ quan, bốn tiểu đoàn hoả lực (61, 62, 63, 64) và một tiểu đoàn kỹ thuật (65). Trung đoàn được huấn luyện tại căn cứ Mỏ Chén (Sơn Tây) dưới mật danh "Công trường 100".
Các cán bộ chỉ huy :
 Nguyễn Quang Tuyến, Trần Nhẫn, Trần Xanh, Phạm Đăng Ty, Nguyễn Ly Sơn giữ chức trung đoàn trưởng, trung đoàn phó, chính ủy và phó chính ủy.
 Lê Thanh Cảnh, Phạm Đăng Thông, Vũ Văn Thao, Hoàng Phùng Ngọc giữ chức tham mưu trưởng, chủ nhiệm chính trị, hậu cần và kỹ thuật của trung đoàn.
 Hồ Sĩ Hưu, Trần Đình Huề, Nguyễn Tiến Thu, Nguyễn Văn Ninh, Nguyễn Văn Lung giữ chức tiểu đoàn trưởng.
 Vũ Ngọc Thuỵ, Đinh Công Tiếu, Nguyễn Thanh Đạt, Trần Hoà, Đào Tiến giữ chức chính trị viên tiểu đoàn.
Ngày 27 tháng 3 năm 1965, Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Liên Xô đã ký hiệp nghị đưa vào Việt Nam 4, 5 cơ số quả tên lửa (loại B-750B) đi kèm với trang bị kỹ thuật cho hai trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên, sử dụng tên lửa đất đối không SAM-2.
Ngày 1 tháng 5 năm 1965, lễ chính thức thành lập Trung đoàn tên lửa 236 được tổ chức tại trung tâm huấn luyện Mỏ Chén.
Trận đánh đầu tiên
Cuối tháng 6 năm 1965, cơ quan tham mưu Quân chủng dưới sự chỉ đạo của thượng tá Nguyễn Quang Tuyến, Tham mưu phó Quân chủng xây dựng được phương án tổ chức trận đánh đầu tiên của bộ đội Tên lửa phòng không.
Khu vực tác chiến được chọn là vùng Suối Hai - Trung Hà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây nằm phía hữu ngạn sông Đà, cách Hà Nội khoảng 60km. Để đảm bảo bí mật, các trận địa tên lửa được xây dựng cấp tốc trong 36 giờ.
Trực tiếp tham gia trận đánh là tiểu đoàn 63, 64 của Trung đoàn tên lửa 236 (có tiểu đoàn 61 làm dự bị). Để bảo đảm đánh thắng trận đầu, Quân chủng cho phép kíp chiến đấu do quân nhân Liên Xô trực tiếp thao tác, kíp chiến đấu của Việt Nam theo dõi, học tập rút kinh nghiệm.
Tham gia phối hợp có đại đội radar 26A cùng các đơn vị pháo cao xạ, súng máy của bộ đội và dân quân.
15 giờ 40 phút ngày 24 tháng 7 năm 1965, đại đội radar 26A phát hiện tốp máy bay gồm 4 chiếc F-4 của Không quân Mỹ bay ở độ cao 7.000m bay theo trục sông Đà.
15 giờ 53 phút, tiểu đoàn 63 và 64, mỗi đơn vị phóng 2 quả tên lửa, bắn rơi 1 chiếc F-4. Không quân Mỹ bị bất ngờ nên không có phản ứng lại. Đây là chiếc máy bay Mỹ đầu tiên bị bắn rơi bởi binh chủng Tên lửa phòng không. Ngày 24 tháng 7 năm 1965 sau này được chọn làm ngày truyền thống của binh chủng.


Trang bị hiện nay
Binh chủng Tên lửa phòng không được trang bị các loại tên lửa đất đối không do Liên Xô (cũ) và Nga sản xuất :
 SA-2
 SA-3
 SA-6
 SA-7
 SA-9
 SA-13
 SA-14
 SA-16
 S-300PMU1

 Binh chủng Ra-đa Phòng không. Được xây dựng từ năm 1956. Ngày truyền thống: 1 tháng 3 năm 1959 (ngày phát sóng ra đa lần đầu tiên)
 Binh chủng Pháo Phòng không
Binh chủng Pháo binh của Quân đội Nhân dân Việt Nam là binh chủng hỏa lực chủ yếu của Quân chủng Lục quân và đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam,Bộ Quốc phòng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng binh chủng Pháo binh 8 chữ "Chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng" ngày 13 tháng 4 năm 1967.
 Trụ sở Bộ tư lệnh: Phố Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội.
 Tư lệnh: Thiếu tướng Nguyễn Văn Côn
Cơ quan
 Bộ Tham mưu
 Cục Chính trị
 Cục Hậu cần
 Cục Kỹ thuật.
Các Đơn vị
 Trường Sĩ quan Pháo binh:
 Trụ sở chính: Thành phố Sơn Tây, Hà Nội.
 Các Lữ đoàn: 675,45,204,490
Lịch sử
Ngày 29 tháng 6 năm 1946 được coi là ngày thành lập Binh chủng Pháo binh. Vào ngày này, tại sân Vệ quốc đoàn Trung ương (40 Hàng Bài, Hà Nội), Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam Hoàng Văn Thái đọc Quyết định thành lập Đoàn Pháo binh Thủ đô, gồm 3 trung đội: Pháo đài Láng, Pháo đài Xuân Tảo và Pháo đài Xuân Canh.
Năm 1948, lực lượng pháo binh phát triển tới cấp tiểu đoàn: tiểu đoàn pháo binh 410 (Liên khu 10), tiểu đoàn pháo binh chủ lực đầu tiên, được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1948.
Năm 1950 pháo binh phát triển tới cấp trung đoàn. Ngày 20 tháng 11 năm 1950 thành lập trung đoàn 675, Trung đoàn pháo cơ giới 45 được thành lập với trang bị gồm 20 khẩu lựu pháo 105 mm và 40 ô tô các loại.
Ngày 31 tháng 7 năm 1949, Cục Pháo binh được thành lập với nhiệm vụ nghiên cứu chế tạo, sửa chữa các loại pháo, đạn và mở lớp đào tạo cán bộ chỉ huy pháo binh và thợ pháo, do Trần Đại Nghĩa làm Cục trưởng.
Năm 1951, đại đoàn công pháo (công binh-pháo binh) 351 được thành lập, gồm 3 trung đoàn: trung đoàn pháo 675, trung đoàn pháo 45 và trung đoàn công binh 151.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, bộ đội pháo binh có 2 trung đoàn pháo, 4 tiểu đoàn pháo phản lực và súng cối, gồm: 24 khẩu 105 mm có xe kéo, 16 khẩu cối 120 mm, 30 khẩu sơn pháo 75 mm và ĐKZ, 12 dàn phản lực 102 mm, 36 khẩu cối 82 mm. Ngoài ra còn có 6 tiểu đoàn pháo trong biên chế các đại đoàn bộ binh.
Ngày 7 tháng 9 năm 1954, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Pháo binh, đến ngày 28 tháng 5 năm 1956 Binh chủng Pháo binh chính thức được thành lập với cơ quan đầu não là Bộ Tư lệnh Pháo binh.
Ngày 16 tháng 9 năm 1954, thành lập 2 đại đoàn pháo 675 và 349.
Ngày 21 tháng 9 năm 1954, thành lập đại đoàn pháo phòng không 367, đến năm 1958 tách khỏi Bộ Tư lệnh Pháo binh để đặt dưới quyền Bộ Tư lệnh Phòng không mới được thành lập.
Ngày 15 tháng 10 năm 1965, thành lập Đoàn pháo binh 69 (còn gọi là Đoàn pháo binh Biên Hòa), thuộc Bộ Tư lệnh Miền (chiến trường B2). Tháng 1 năm 1972, Đoàn pháo binh 69 chuyển thành Sư đoàn pháo binh 75 thuộc Bộ Tư lệnh Miền.
Pháo đài Láng
Trung đội pháo đài Láng thành lập ngày 29 tháng 6 năm 1946, gồm 44 người, chia làm 3 khẩu đội, do Nguyễn Ưng Gia làm trung đội trưởng, Nguyễn Văn Khoát làm chính trị viên.. Pháo đài Láng vốn do Pháp lập ra sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ để bắn máy bay Nhật. Ở đây có 4 khẩu pháo cao xạ 75 mm mua của Đức là loại súng tối tân nhất lúc bấy giờ được gắn cố định vào bệ bê tông. Năm 1940, Nhật đã buộc Pháp phải dùng pháo đài Láng để bắn máy bay Mỹ đến ném bom Hà Nội. Bộ đội Việt Nam dùng 2 khẩu cao xạ còn lại với 400-500 viên đạn làm pháo bắn mục tiêu mặt đất.
Ngày Toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, Pháo đài Láng đã nổ súng bắn vào thành Hà Nội, yểm trợ cho bộ đội Việt Nam. Ba ngày sau, pháo đài Láng bắn rơi một máy bay trinh sát của Pháp. Nửa tháng sau thì pháo đài hết đạn, nhưng được điều thêm 1 khẩu sơn pháo 75 mm có bánh xe do ô tô kéo về. Ngày 10 tháng 1 năm 1947, trung đội pháo đài Láng rút khỏi Hà Nội, kết thúc đợt chiến đấu đầu tiên của pháo binh Việt Nam.
Pháo hỏa tiễn ĐKB
Năm 1966 Liên Xô chi viện cho Quân đội Nhân dân Việt Nam pháo hỏa tiễn 24 nòng đặt trên xe, sử dụng phương tiện hiện đại để phóng cùng một lúc 24 viên đạn, nhưng như thế chưa phù hợp với điều kiện tác chiến của Việt Nam. Phía Việt Nam yêu cầu Liên Xô cải tiến loại pháo hỏa tiễn đó bằng cách tháo rời giàn pháo ra từng nòng để bộ đội Việt Nam mang vác cơ động và chiến đấu được thuận lợi. Loại pháo cải tiến này được đặt tên mới là ĐKZB, và gọn hơn là ĐKB. Pháo hỏa tiễn ĐKB cỡ 122 mm, tầm bắn 11.200 m, đạn nặng gần 60 kg. Trung đoàn pháo hỏa tiễn 724 được thành lập tháng 2 năm 1966 và được đưa vào miền Đông Nam Bộ (chiến trường B2). Trung đoàn 724 trực thuộc Đoàn 69 (tương đương cấp sư đoàn) pháo binh Miền (tên gọi tắt của chiến trường B2). Trung đoàn trưởng Trần Đáo và Chính ủy Đinh Lại hy sinh trên đường vào miền Nam nên Tô Đê làm Trung đoàn trưởng và Lê Bình làm Chính ủy trung đoàn. Trung đoàn đã pháo kích sân bay Biên Hòa ngày 11 tháng 5 năm 1967, phá hủy và phá hỏng 150 máy bay các loại và nhiều phương tiện kỹ thuật, đốt cháy nhiều kho nhiên liệu, tiêu diệt và làm bị thương hơn 800 phi công và nhân viên kỹ thuật đối phương.
Chỉ huy và Lãnh đạo qua các thời kỳ
Cục Pháo binh, Bộ Tổng tư lệnh
 Năm 1949-1954: Trần Đại Nghĩa: Thiếu tướng, Cục trưởng.
Bộ Chỉ huy Pháo binh
 1954-1956: Lê Thiết Hùng, Thiếu tướng (1948), Tư lệnh Bộ Chỉ huy Pháo binh
Tư lệnh Binh chủng
 1956-1963: Lê Thiết Hùng, Thiếu tướng, Tư lệnh đầu tiên của Binh chủng Pháo binh.
 1964-1968: Nguyễn Thế Lâm, Thiếu tướng (1974)
 1968-1971: Doãn Tuế, lúc làm Tư lệnh là thiếu tướng, trung tướng (1984)
 1979-1988: Nguyễn Trung Kiên, thiếu tướng
 1988-1995: Nguyễn Nam Hồng, thiếu tướng
 1995-1998: Tống Ngọc Thắng, thiếu tướng. Từ 1998 là Cục trưởng Cục Quân lực, Bộ Tổng tham mưu QDNDVN.
 1998- 2005: Đỗ Quốc Ân, thiếu tướng.
 2005-nay: Vũ Thanh Lâm, thiếu tướng
Chính ủy Binh chủng, Phó tư lệnh chính trị
 1958-1959: Lê Hiến Mai, Chính ủy đầu tiên của Binh chủng Pháo binh, trung tướng (1974)
 1959-1961: Nguyễn Xuân Hoàng, trung tướng (1986)
 1961-1963: Lê Quang Hòa, thượng tướng (1986)
 1963?-1965: Trương Công Cẩn
 1966-1971: Tạ Xuân Thu, thiếu tướng (1961)
 1971-1973: Đặng Hòa, Trung tướng (1986)
 1973-1979: Nguyễn Nam Trung, Thiếu tướng
 1979-1980: Đặng Hòa, Thiếu tướng
 1980-1988: Hoàng Văn Thạ,Thiếu tướng
 1988-1993: Hoàng Định, Đại tá.
 1993-2005 : Lê Giám Đốc, Thiếu tướng.

Bộ đội Không quân có các binh chủng:
Binh chủng Không quân tiêm kích
Không Quân Nhân Dân Việt Nam


Quân kỳ Quân đội Nhân dân Việt nam và cờ của Không quân Nhân dân Việt Nam
Hoạt động 1959 -
Quốc gia Việt Nam
Quy mô 30.000 người
551 máy bay đang hoạt động
Lễ kỷ niệm 3 tháng 4 - ngày Không quân tiêm kích đánh thắng trận đầu (1965)
Tham chiến Chiến tranh Việt Nam
Chiến tranh biên giới Tây Nam
Chiến tranh biên giới phía Bắc

Huy hiệu
Phù hiệu

Không quân
Cường kích
Su-22, Mi-24

Tiêm kích
Su-30, Su-27, MiG-21

Tuần tra
Ka-27, Ka-25

Do thám
M-400, An-30

Huấn luyện
Yak-52, L-39

Vận tải
An-38, M-28, An-24, UH-1, Mi-8, Mi-17

Không quân Nhân dân Việt Nam là một quân chủng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, trực thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân-Bộ Quốc phòng, chiến đấu với trang bị là máy bay chuyên dụng. Bảo tàng Không quân trực thuộc Cục Chính trị Quân chủng Phòng không-Không quân, đặt tại 86 đường Trường Chinh, Hà Nội. Ngày thành lập: 3 tháng 4 năm 1985.
Lịch sử

Trung tướng Hoa Kỳ Daniel P. Leaf và phái đoàn của ông thăm các chỉ huy Không quân Nhân dân Việt Nam tháng 5/2007
 Ngày 9 tháng 3 năm 1949: Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Năm 1951 giải thể ban này, nhập vào lực lượng pháo binh và phòng không
 Ngày 3 tháng 3 năm 1955: Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 15/QĐA thành lập Ban nghiên cứu Sân bay trực thuộc Tổng Tham mưu trưởng. Ngày này được lấy làm ngày thành lập Không quân Nhân dân Việt Nam.
 Ngày 24 tháng 1 năm 1959: Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh ban hành Quyết định số 319/QĐ thành lập Cục Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu trên cơ sở tổ chức và lực lượng của Ban Nghiên cứu Sân bay và Cục Hàng không dân dụng Việt Nam.
 Ngày 1 tháng 5 năm 1959, tại sân bay Gia Lâm, trung đoàn không quân vận tải đầu tiên, trung đoàn 919 ra đời. (nay là Đoàn bay 919 của Hàng không Việt Nam)
 Ngày 22 tháng 10 năm 1963: Cục Không quân sáp nhập với Bộ Tư lệnh Phòng không thành Quân chủng Phòng không-Không quân. Lực lượng không quân lúc đó chỉ có 1 trung đoàn vận tải 919 và trung đoàn 910 (trường huấn luyện).
 Tháng 3 năm 1967: thành lập Bộ Tư lệnh Không quân
 Ngày 16 tháng 5 năm 1977: thành lập Quân chủng Không quân. Quân chủng Không quân gồm các binh chủng Không quân tiêm kích, Không quân tiêm kích-bom, Không quân vận tải, Không quân trinh sát,... và tồn tại đến năm 1999.
 Từ ngày 3 tháng 3 năm 1999: trở lại là một thành phần (gồm một số binh chủng) trong Quân chủng Phòng không-Không quân.
Sự hình thành các trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên

Đoàn không quân "Sao Đỏ", đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang góp phần xứng đáng trong trậnĐiện Biên Phủ trên không
Ngay từ tháng 3 năm 1956, các đoàn cán bộ, chiến sĩ thuộc Ban nghiên cứu sân bay được cử đi nước ngoài học tập. Đoàn học lái máy bay tiêm kích có 50 người, do Phạm Dưng làm trưởng đoàn (sau này Đào Đình Luyện thay) được cử sang học tập tại Trung Quốc.
Lực lượng Không quân Nhân dân Việt Nam đầu tiên được thành lập là Trung đoàn không quân tiêm kích 921, mật danh là Đoàn Sao Đỏ, do Trung tá Đào Đình Luyện làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Đỗ Long làm Chính ủy, Thiếu tá Trần Mạnh làm Trung đoàn phó. Trung đoàn này được huấn luyện trên cao nguyên Vân Quý - Trung Quốc. Ngày 3 tháng 2 năm 1964, lễ thành lập Trung đoàn không quân đầu tiên được tổ chức tại Mông Tự, tỉnhVân Nam, Trung Quốc. Ban đầu Trung đoàn có 32 chiếc máy bay chiến đấu kiểu MiG-17, 4 chiếc máy bay kiểu MiG-15, số phi công có 70 người, được đào tạo ở Trung Quốc trở về nước cùng với số máy bay MiG-17A được viện trợ. Từ tháng 4 năm 1965 chuyển sang máy bay MiG-21.
Ngày 4 tháng 8 năm 1965, Trung đoàn không quân tiêm kích thứ 2 là Trung đoàn 923, mật danh Đoàn Yên Thế, được thành lập, gồm 2 đại đội 17 phi công MiG-17, do Nguyễn Phúc Trạch làm Trung đoàn trưởng, Nguyễn Ngọc Phiếu làm Chính ủy. Không quân Việt Nam được trang bị thêm một số máy bay MiG-17F có bộ phận tăng lực. Đến cuối năm 1965, Không quân Việt Nam có thêm một số máy bay MiG-21 do Liên Xô viện trợ, tuy nhiên, mãi đến tháng 3 năm 1966, số máy bay này mới về đến Việt Nam. Từ năm 1979 Trung đoàn 923 trang bị máy bay tiêm kích-bom Su-22.
Ngày 24 tháng 3 năm 1967, Sư đoàn không quân Thăng Long (phiên hiệu là Sư đoàn 371) tức Bộ tư lệnh không quân được thành lập, gồm các trung đoàn 921, 923, 919 và đoàn bay Z. Đây là Sư đoàn Không quân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đến tháng 3 năm 1972, trung đoàn không quân tiêm kích thứ 3 thành lập, trung đoàn 927, mật danh Đoàn Lam Sơn.
Lấy máy bay đối phương
Bên cạnh đó, Không quân Việt Nam cũng có một số trường hợp đặc biệt hi hữu. Ngày 7 tháng 11 năm 1973, Hồ Duy Hùng, vốn là một Thiếu úy phi công trực thăng vũ trang của Việt Nam Cộng hòa bị sa thải, thực chất là một điệp viên được cài vào Không lực Việt Nam Cộng hòa, đã đánh cắp một chiếc máy bay trực thăng vũ trang UH-1A tại Đà Lạt và hạ cánh tại Dầu Tiếng, thuộc vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Đúng 17 tháng sau, ngày 8 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Thành Trung, cũng là một một điệp viên được cài vào Không lực Việt Nam Cộng hòa, đã đánh cắp một chiếc máy bay phản lực chiến đấu F-5E, ném bom vào dinh Độc Lập và sau đó hạ cánh tại sân bay dã chiến tại Phước Long. Không lâu sau đó, đúng 20 ngày sau, vào ngày 28 tháng 4 năm 1975, cũng chính Nguyễn Thành Trung dẫn đầu một phi đội gồm 5 chiếc khu trục ném bom A-37 chiến lợi phẩm, đã ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, thực hiện trận đánh cuối cùng của Không quân Việt Nam trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Phi đội gồm Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn Quảng, Từ Đễ (3 phi công lái MiG-21 vừa mới học chuyển loại) và Trần Văn On (phi công Không lực Việt Nam Cộng hòa được trưng dụng).
Khu vực đỗ máy bay của không lực Chính quyền Sài Gòn đã bị trúng 6 quả bom làm ít nhất 3 chiếc AC – 119 và một số chiếc C–47 bị phá hủy hoàn toàn. Hai quả bom khác rơi đúng điểm giữa tòa nhà Phòng tác chiến và tháp chỉ huy.
Những tổn thất và vinh quang
Trước một đối phương chiếm ưu thế tuyệt đối cả về số lượng lẫn chất lượng, với hàng ngàn máy bay và hàng trăm phi công có trên 1.000 giờ bay trên nhiều lọai máy bay khác nhau, Không quân Việt Nam vào lúc cao điểm cũng không có quá 200 máy bay MiG-17/19/21 với chưa đến 100 phi công với số giờ bay ít ỏi, thì những tổn thất của phía Việt Nam là rất khó chịu đựng. Họ đã cố gắng cải thiện vấn đề này bằng nhiều biện pháp tổng hợp từ tinh thần đến chiến thuật đánh nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Tuy nhiên, các phi công Mỹ cũng không phải là những kẻ bất tài.
Phía Mỹ công bố trong thời gian từ 1965 đến 1973, họ đã có 194 phi công, trong đó có 143 là phi công F-4, đã bắn hạ MiG. Một tài liệu khác của Hải quân Mỹ công bố, trong suốt thời gian từ ngày 7 tháng 6 năm 1965 đến 12 tháng 1 năm 1973, các phi công Hải quân Mỹ đã hạ 60 chiếc MiG. Đặc biệt với chiến dịch Bolo vào năm 1967 và chiến dịch TopGun vào năm 1972 của người Mỹ đã làm không quân Việt Nam thiệt hại đến mức khủng khiếp, nhất là trên số lượng phi công ít ỏi của họ.
Riêng ngày 2 tháng 1 năm 1967, chiến dịch Bolo nhằm gài bẫy các MiG Việt Nam được thực hiện. Trong ngày này, có 6 MiG cất cánh, thì 5 chiếc bị bắn rơi tại chỗ, 4 phi công phải nhảy dù (trong đó có 3 người về sau trở thành hạng "Ách" là Nguyễn Đăng Kỉnh, Nguyễn Văn Cốc, Nguyễn Hồng Nhị) và một phi công thiệt mạng, phía Mỹ không mất máy bay nào. Trong hai ngày sau, riêng đoàn 921 mất thêm 3 chiếc nữa. Trong vòng 3 ngày, Việt Nam tổn thất 9 máy bay trong tổng số 16 máy bay tham gia chuẩn bị chiến đấu.[1] Hoặc trong ngày 10 tháng 5 năm 1972, các phi công Mỹ tốt nghiệp chương trình huấn luyện TopGun đã bắn hạ gần 10 chiếc MiG-17/19. Phía Việt Nam cũng thừa nhận thiệt hại trong vòng 3 ngày liên tiếp, họ mất gần 10 phi công giỏi.

Máy bay tiêm kích MIG 17 này đã được Nguyễn Văn Bảy B điều khiển ngày 19/4/1972 và ném bom trúng tàu khu trục Hibi đang thực hiện nhiệm vụ pháo kích Đồng Hới.
Bên cạnh đó, Không quân Việt Nam còn bị tổn thất bởi chính những người đồng đội Phòng không của mình. Do số lượng máy bay Việt Nam rất ít, ngay trong không chiến, giữa đông đảo các máy bay của đối phương, các MiG cũng rất dễ bị lạc đạn trong lưới lửa phòng không Việt Nam. Ngoài ra, do ít thông tin, những người lính phòng không còn bắn nhầm trong nhiều trường hợp đáng tiếc. Ngoài trường hợp 3 máy bay MiG bị rơi, được cho là bị đạn cao xạ bắn nhầm ngày 4 tháng 4 năm 1965, tài liệu phía Việt Nam ghi nhận hai trường hợp MiG-17 và MiG-21 bị bắn rơi bởi tên lửa SAM-2 của Việt Nam làm 1 phi công chết, 1 bị thương nặng.[2] Trong thời gian đầu Chiến dịch Sấm Rền, sự yếu kém do thiếu kinh nghiệm cũng làm phía Việt Nam mất nhiều phi công trẻ và máy bay, có lúc làm cho lực lượng không quân Việt Nam gần như tê liệt.
Tuy nhiên, các phi công Việt Nam đã thể hiện sự dũng cảm và sáng tạo của họ trong cả hai phương diện chiến thuật và kỹ thuật, làm kinh ngạc đối phương. Trong suốt các cuộc không chiến giữa không quân Việt Nam với quân đội Mỹ, phía Việt Nam có 16 phi công đạt đẳng cấp "Ách" (tức đã bắn hạ được từ 5 máy bay đối phương trở lên), trong đó người cao nhất là phi công MiG-21 Nguyễn Văn Cốc đã bắn hạ 9 máy bay Mỹ. Một phi công huyền thoại khác là Nguyễn Văn Bảy, phi công MiG-17, cũng đã bắn hạ 7 máy bay Mỹ. Chính anh (Nguyễn Văn Bảy) cũng đã chỉ huy một biên đội MiG-17 ngày 14/4/1972 cất cánh từ sân bay Khe Gát, Quảng Bình ném trúng 2 quả bom 250kg vào tàu khu trục Mỹ Highbee. Đây cũng là lần đầu tiên cho không quân của một quốc gia khác tiến công hạm đội Mỹ kể từ sau thế chiến thứ hai.
Đặc biệt cho tới hiện nay chỉ có Không quân Nhân dân Việt nam là dám đối đầu và bắn rơi máy bay B-52, một loại siêu pháo đài bay hiện đại của không quân Hoa Kỳ (do Anh hùng Lực lượng Vũ trang Phạm Tuân thực hiện vào đêm 27/12/1973, bằng tên lửa không đối không NHK-8-9-1-2 gắn trên máy bay MiG-21FM).[3] Trong Chiến tranh Việt Nam, có ba siêu pháo đài bay loại này được cho là do Không quân Nhân dân Việt Nam bắn rơi. Trong khi đó, chỉ có 3 nhóm phi công Mỹ đạt đẳng cấp "Ách" (đều là phi công lái F-4) và người cao nhất là Hoa tiêu, Đại úy Không quân Chuck E. DeBellevue đã bắn hạ được 6 máy bay. Hai tổ lái còn lại là tổ lái của Ritchie Richard (phi công) và Feinstein Jeffrey S. (hoa tiêu) của Không quân và tổ lái Cunningham Randolph (phi công) và Driscoll William (hoa tiêu) của Hải quân, đều hạ 5 chiếc.
Các phi công Mỹ còn lưu truyền về một phi công MiG-17 được họ gọi bằng biệt hiệu Đại tá Toon (hay Tomb) với số lần bắn hạ đối phương là 13 lần, về sau bị một "Ách" của Hải quân Hoa Kỳ là Đại úy Randy "Duke" Cunningham bắn rơi. Một số người cho rằng đây là phi công Đinh Tôn, tuy nhiên Đinh Tôn lại lái chiếc MiG-21 và không được xếp vào nhóm "Ách". Trên thực tế, phía Việt Nam không đưa các phi công có cấp bậc Thiếu tá trở lên để tham gia không chiến. Sau này, Đại tá Toon được xác nhận là một nhân vật tưởng tượng của các phi công Mỹ và thường xuyên được họ đưa ra làm đề tài chuyện phiếm. Như là một thiện ý của các phi công Mỹ, Đại tá Toon là một sự tổng hợp của các phi công giỏi của Việt Nam, giống như những "nghệ sỹ sôlô" ném bom đơn độc ban đêm trong Thế chiến thứ hai được gọi là "máy giặt Charlie" vậy.
Theo một thống kê, tổng cộng trong chiến tranh, Không quân Nhân dân Việt Nam tuyên bố đã bắn hạ 266 máy bay các loại của Mĩ[4][5], và tổn thất theo Hoa Kì tuyên bố là 196 máy bay các loại (gồm 100 chiếc MiG-17, 10 chiếc MiG-19 và 86 chiếc MiG-21), đạt tỉ lệ 1 đổi 1,3. Đây là một kì công nhất là với đội trang bị cũ kĩ và số giờ bay thấp của các phi công.
Có thể tham khảo thành tích của các phi công tại đây
Chỉ huy, lãnh đạo qua các thời kỳ
Ban Nghiên cứu Không quân
 Trưởng ban: Hà Đổng
 Chính trị viên: Trần Hiếu Tâm
Ban Nghiên cứu Sân bay
 Trưởng ban: Trần Quý Hai (tháng 3-tháng 5 năm 1955), Đặng Tính (tháng 5 năm 1955-1959)
 Chính ủy: Hoàng Thế Thiện (1955-1959)
Cục Không quân
 Cục trưởng: Đại tá Đặng Tính (1959-1963)
 Chính ủy: Thượng tá Hoàng Thế Thiện (1959-1963)
Các Tư lệnh
 1963-1967: Đại tá Phùng Thế Tài (Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân)
Binh chủng Không quân trong Quân chủng Phòng không - Không quân
 Tháng 3 năm 1967: Thượng tá Nguyễn Văn Tiên
 1967-1977: Thượng tá, Đại tá, rồi Thiếu tướng Đào Đình Luyện
Đào Đình Luyện
Thượng tướng Đào Đình Luyện (1929-1999) nguyên là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam (1991-1995).
Tiểu sử tóm tắt
Đào Đình Luyện tên thật là Đào Mạnh Hùng; quê xã Quỳnh Hội, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
 Ông tham gia cách mạng tháng 3 năm 1945, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1945.
 Trong kháng chiến chống Pháp, ông lần lượt giữ các chức vụ từ Trung đội trưởng đến Chính ủy trung đoàn. Tham gia các chiến dịch:Việt Bắc (1947), Sông Thao, Biên Giới, Hòa Bình và Điện Biên Phủ (1954).
 Tháng 10 năm 1955, ông làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 312.
 1959-1963, ông làm Cục trưởng Cục Không quân.
 Từ tháng 8 năm 1964 đến năm 1965, ông làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân 921 (Trung đoàn Không quân đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam).
 Tháng 4 năm 1966 đến năm 1969, ông làm Tham mưu trưởng, Phó Tư lệnh rồi Tư lệnh (1967-77) kiêm Chính ủy Binh chủng Không quân thuộc Quân chủng Phòng không – Không quân.
 Tháng 3 năm 1974, ông làm Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân.
 Tháng 5 năm 1977, ông làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân chủng Không quân.
 Tháng 3 năm 1986, ông làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
 Năm 1989, ông làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Ủy viên Đảng ủy Quân sự Trung ương.
 Từ năm 1991 đến năm 1995, ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Ủy viên thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương.
Ông thụ phong quân hàm Thiếu tướng năm 1977, Trung tướng năm 1983, Thượng tướng năm 1988.
Ông bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa VI và VII; đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa VII,VIII, IX.
Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Quân công (hạng nhất, hạng nhì), 2 Huân chương Chiến công hạng nhì và nhiều huân, huy chương khác.

 1999-?: ?
Quân chủng Không quân
 1977-1986: Thiếu tướng (1975), Trung tướng (1980) Đào Đình Luyện
 1986-1989: Thiếu tướng Trần Hanh
 1989-1996: Trung tướng Phạm Thanh Ngân
Phạm Thanh Ngân
Phạm Thanh Ngân (sinh năm 1939 tại xã Lương Phú, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên) là một anh hùng lực lượng vũ trang nhân dânViệt Nam, thượng tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, nguyên ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tiểu sử
 Năm 1959 ra nhập Quân đội nhân dân Việt Nam
 Năm 1966, Phạm Thanh Ngân gia nhập lực lượng Không quân Nhân dân Việt Nam. Đến năm 1969, ông đã trở thành một phi đội trưởng phi đội máy bay chiến đấu MiG-21.
 Năm 1969, ông được phong danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì thành tích tự mình bắn rơi 8 máy bay của đối phương và chỉ huy đơn vị bắn rơi 8 máy bay khác.[1]
 Năm 1971, ông sang học tại Học viện Không quân Liên Xô.
 Năm 1977 đến năm 1979, ông là sư đoàn phó rồi sư đoàn trưởng không quân.
 Năm 1983, ông làm phó tham mưu trưởng Quân chủng Không quân.
 Năm 1989 đến năm 1991, là tư lệnh Quân chủng không quân.[1]
 Năm 1991, ông được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII. Năm 1996, được bầu tiếp làmủy viên trung ương Đảng khóa VIII.
 Năm 1996, ông làm phó chủ nhiệm tổng cục chính trị. Từ năm 1998 đến năm 2001 là chủ nhiệm Tổng cục chính trị.[1]
 Tháng 12 năm 1997, ông được bầu vào Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII.
 Năm 1999, ông được phong hàm thượng tướng.

 1996-1997: Thiếu tướng Nguyễn Văn Cốc (Quyền Tư lệnh)
Nguyễn Văn Cốc

Nguyễn Văn Cốc trên máy bay
Nguyễn Văn Cốc (sinh 1943) là một phi công huyền thoại của Việt Nam với thành tích kỷ lục bắn hạ 9 máy bay Mỹ trên bầu trời Bắc Việt Nam. Ông trở thành một Trung tướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Anh hùng Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Cuộc đời và chiến công
Ông sinh năm 1943, quê tại xã Bích Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Thân sinh của ông là Nguyễn Văn Bảy, Chủ tịch Mặt trận Việt Minh huyện Việt Yên, Bắc Giang, bị quân Pháp giết chết vào năm 1947.
Năm 1961, khi đang học lớp 8, trường Ngô Sĩ Liên tại thị xã Bắc Giang, ông trúng tuyển kỳ thi chọn đào tạo phi công. Ông nhập ngũ và được đưa đi huấn luyện tại Trường dự khóa bay ở sân bay Cát Bi (Hải Phòng). Cuối năm đó, ông sang Liên Xô cùng đoàn huấn luyện phi công 120 người. Cuối năm 1965, khi về nước, ông là một trong 17 phi công MiG-17 trong tổng số 23 phi công. Sau khi về nước, ông được biên chế về Trung đoàn 921 (Đoàn Không quân Sao Đỏ). Nhưng không lâu sau, lại được chọn để đi học chuyển loại máy bayMiG-21 ở Liên Xô một năm, rồi trở lại về đoàn Sao Đỏ vào đầu năm 1967. Trong các phi đội hai chiếc ông tham gia không chiến, ông được phân công ở vị trí số 2 với mục đích bảo vệ cho số 1 tiêu diệt đối phương.
Ngày 30 tháng 4 năm 1967, ông xuất kích trong phi đội do phi công Nguyễn Ngọc Độ (cũng là một ace của Việt Nam) làm phi đội trưởng. Trận không chiến diễn ra với các máy bay F-105 trên bầu trời Hòa Bình, Sơn La. Gặp thời cơ thuận lợi, sau khi phi đội trưởng bắn hạ một F-105, ông cũng chớp thời cơ bắn hạ thêm một chiếc F-105 nữa. Cả hai chiếc MiG đều về an toàn. Đây là chiếc máy bay đầu tiên ông bắn hạ, mở đầu cho thành tích của người phi công trong các cuộc không chiến trên bầu trời Bắc Việt Nam.
Theo nguyên tắc chiến thuật phi đội hai chiếc của MiG-21, số 2 chỉ có nhiệm vụ yểm trợ, quan sát đối phương giúp cho số 1 vào công kích. Nguyễn Văn Cốc cải tiến chiến thuật, cùng tham gia tiêu diệt máy bay đối phương, do đó, hiệu suất phi đội tăng lên. Trước kia do chỉ có số 1 công kích, tối đa phi đội chỉ bắn hạ được 2 máy bay đối phương (vì MiG-21 chỉ mang được 2 tên lửa). Theo chiến thuật cải tiến, phi đội của ông cao điểm có thể bắn hạ được 3 máy bay đối phương. Để đạt được điều này, số 2 phải phán đoán và hành động chớp thời cơ rất nhanh. Do chiến thuật cải tiến này, ông được đồng đội đặt cho biệt danh là Chim cắt số 2.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi phi công Nguyễn Văn Cốc tại Đại hội Anh hùng-chiến sĩ thi đua Quân chủng Phòng không-Không quân năm 1969
Với chiến thuật cải tiến, chỉ riêng trong năm 1967, ông đã bắn rơi 6 máy bay đối phương. Trong tổng số 9 chiếc, có 6 chiếc ông bắn hạ ở vị trí số 2. Từ đó, chiến thuật cải tiến được đưa vào huấn luyện và đem lại hiệu quả tốt giúp không quân Việt Nam nâng cao hiệu suất trong một thời gian, khiến cho các phi công Mỹ cũng phải khâm phục.
Năm 1969, ông được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam, với thành tích bắn hạ 9 máy bay Mỹ chỉ trong 2 năm. Trên chiếc MiG-21 PF, số máy bay ông bắn hạ được phía Việt Nam công bố gồm 9 chiếc, trong đó có 2 F-4, 5 F-105 và 2 máy bay trinh sát không người lái. Phía Mỹ cũng thừa nhận số máy bay bị ông bắn hạ gồm 7 chiếc, trong đó có 2 F-4D, 1 F-4B, 2 F-105F, 1 F-105D và 1 F-102A. Trong toàn bộ các cuộc không chiến trên bầu trời Bắc Việt Nam, ông có số bắn hạ máy bay cao nhất của cả Việt Nam và Mỹ. Ngoài ra, ông còn hỗ trợ đồng đội bắn hạ thêm 9 máy bay nữa. Khi đó, ông mới vừa 27 tuổi, hàm Đại úy Không quân.
Ông từng phải nhảy dù hai lần. Một lần vào tháng 1 năm 1967, trong chiến dịch Bolo, ông bị bắn rơi khi vừa cất cánh do thiếu kinh nghiệm và chưa kịp phản ứng trước đối phương. Một lần khác ông phải bắt buộc nhảy dù sau khi hết dầu lúc không chiến.
Sau năm 1969, ông được yêu cầu không tham gia chiến đấu nữa mà chuyển sang huấn luyện cho các phi công mới. Điều này cũng phù hợp với ý đồ giữ gìn các phi công xuất sắc (flying ace) của không quân Việt Nam thời bấy giờ (phi công MiG-17 Nguyễn Văn Bảy cũng được rút ra trong đợt này).
Làm lãnh đạo trong Quân đội
Sau khi rút ra khỏi đơn vị chiến đấu, ông công tác trong Binh chủng Không quân. Năm 1971, ông được cử đi học sĩ quan chỉ huy không quân tại Liên Xô. Mãi sau 1976, ông mới về nước và tiếp tục công tác trong Quân chủng Không quân vừa được thành lập.
Năm 1990, ông được thăng hàm Thiếu tướng, giữ chức Phó tư lệnh Quân chủng Không quân. Từ năm 1996, ông là quyền Tư lệnh, rồi Tư lệnh Quân chủng. Năm 1999, ông được điều sang làm Chánh Thanh tra Bộ Quốc phòng, hàm Trung tướng.
Năm 2002, ông nghỉ hưu. Năm 2004, ông bị chấn thương cột sống do bị ngã cầu thang.
Ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1966, khi đang học tại Liên Xô. Ông được nhà nước Việt Nam tuyên dương:
 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam
 1 Huân chương Quân công hạng ba
 1 Huân chương Chiến công hạng nhì
 3 Huân chương Chiến công hạng ba
Năm 1966, ông làm quen với bà Đới Thu Hương, người Thanh Hóa, diễn viên của Đoàn văn công Quân chủng Phòng không - Không quân. Tuy nhiên, mãi đến năm 1974, ông bà mới làm đám cưới. Trước nghỉ hưu, bà là Thượng tá, Giám đốc Thư viện Quân chủng Phòng không không quân. Ông bà có với nhau 2 người con gái.

 1997-1999: Thiếu tướng Nguyễn Đức Soát
Nguyễn Đức Soát

Trung tướng Nguyễn Đức Soát.
Nguyễn Đức Soát sinh ngày 24 tháng 6 năm 1946 tại xã Nam Phong, huyện Phú Xuyên, Hà Nội, làTrung tướng - Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Ông từng là một phi côngMiG-21 xuất sắc và được coi là một trong các Át chủ bài của Không quân Nhân dân Việt Nam trongchiến tranh Việt Nam
Chiến công
Theo báo cáo của phía Quân đội Nhân dân Việt Nam thì sô máy bay của Không quân Hoa Kỳ bị phi công Nguyễn Đức Soát hạ trên chiếc MiG-21PFM Fishbed số hiệu 5020 là 6 (phía Hoa Kỳ xác nhận :3 chiếc F-4E, 1 chiếc F-4J, 1 chiếc A-7B).
Trong chiến đấu, phi công Nguyễn Đức Soát là sỹ quan không quân thuộc Trung đoàn Không Quân tiêm kích 927, là học trò của 2 phi công: Phạm Thanh Ngân (hạ 8 chiếc) và Nguyễn Văn Cốc (hạ 9 chiếc: 2 F-4D, 1 F-4B, 2 F-105F, 1 F-105D và 1 F-102A).
Ngày 23 tháng 5 năm 1972, ông lập chiến công lần đầu tiên khi bắn hạ chiếc A-7B Corsair II của Hải quân Hoa Kỳ bằng pháo 30mm, phi công Charles Barnett bị chết. Ngày 24 tháng 6 năm 1972, 2 chiếc MiG-21 của Nguyễn Đức Nhu và Hà Vinh Thanh cất cánh ở sân bay Nội Bài vào lúc 15 giờ 12 phút để đánh chặn một tốp F-4 lên không kích nhà máy gang thép Thái Nguyên. Đội hình hộ tống Mỹ nhanh chóng phản ứng và nghênh chiến. Nhưng hai chiếc MiG đó chỉ là mồi nhử, bất ngờ hai chiếc MiG-21PFM của Trung đoàn 927 xuất hiện: Nguyễn Đức Soát (biên đội trưởng hai chiếc) và Ngô Duy Thu (hộ vệ), lao tới tấn công đội hình F-4 hộ tống. Bằng quả tên lửa không đối không có đầu dẫn nhiệt R-3S Atoll, ông hạ chiếc F-4E của David Grant và William Beekman, Ngô Duy Thu cũng hạ một chiếc F-4 khác.
Ba ngày sau (ngày 27 tháng 6 năm 1972), ông cất cánh từ sân bay Nội Bài vào 11 giờ 53 phút để đánh chặn một tốp 4 chiếc F-4, biết rằng còn có 8 chiếc F-4 khác đang bay tới, nhưng họ không thể bị mắc kẹt lại ở giữa hai tốp đó. Cả 2 phi công ngoặt lại, vọt lên độ cao 5000 mét và chờ đợi. Sau đó, họ phát hiện được cặp F-4 đi sau cùng. Cả Nguyễn Đức Soát và Ngô Duy Thu đều mỗi người hạ một chiếc bằng tên lửa R-3. Hai phi công Mỹ tên Miller và McDow bị bắt làm tù binh.
Ngày 26 tháng 8 năm 1972, Nguyễn Đức Soát tiếp tục lập chiến công khi bắn hạ một chiếc F-4 duy nhất của Lực lượng Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Sỹ quan chống rađa của chiếc F-4J được cứu nhưng phi công Sam Cordova thì thiệt mạng. Nguyễn Đức Soát ghi chiến công cuối cùng của mình vào ngày 12 tháng 10 năm 1972, khi ông bắn hạ chiếc F-4E của Myron Young và Cecil Brunson (bị bắt làm tù binh).
Danh hiệu và huy chương
 Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân năm 1973[2]
 Huân chương Quân công hạng ba.
 2 Huân chương Chiến công hạng hai.
 5 Huân chương Chiến công hạng ba.
 Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng ba.
 Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng nhất, hạng nhì, hạng ba.
 Huy chương Quân kỳ quyết thắng.
 6 Huy hiệu Bác Hồ.

Các Chính ủy và Phó Tư lệnh Chính trị
 1963-1967: Đại tá Đặng Tính (Chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân)
 1967-1969: Thượng tá Đào Đình Luyện
Binh chủng Không quân trong Quân chủng Phòng không - Không quân
 Tháng 3 năm 1967: Thượng tá Phan Khắc Hy
 1967-1977: Trung tá Đỗ Long
 1999-?:?
 Quân chủng Không quân
 1977-1980: Thiếu tướng Đào Đình Luyện
 1980-1987: Thiếu tướng Chu Duy Kính
 1987-1989: Thiếu tướng Phạm Thanh Ngân
 1989-1996: Thiếu tướng Phạm Tuân
 Phạm Tuân



Phi hành gia

Quốc tịch Việt Nam

Hiện trạng Còn sống
Sinh 14 tháng 2, 1947(63 tuổi)
Thái Bình, Việt Nam

Nghề nghiệp khác Phi công

Hàm Trung tướng, Không quân Nhân dân Việt Nam

Thời gian trên không gian 7 ngày 20 giờ 42 phút
Chọn Nhóm phi hành gia quốc tế 1979

Phi vụ Soyuz 37/36

 Phạm Tuân (sinh năm 1947) là phi công, phi hành gia người Việt Nam. Ông là người đầu tiên của Việt Nam và châu Á bay lên vũ trụ vào năm 1980 trong chương trình Intercosmos của Liên Xô. Cũng có thể nói ông là người đầu tiên từ một nước đang phát triển hay nước thuộc Thế giới thứ ba trở thành nhà du hành vũ trụ bay vào không gian cùng với các nhà du hành vũ trụ Liên Xô. Ông cũng là một trong số ít người nước ngoài được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
 Tiểu sử
 Phạm Tuân sinh ngày 14 tháng 2 năm 1947.tại xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông đi Bộ Đội, được tuyển vào binh chủng Không quân Nhân dân Việt Nam năm 1965, tốt nghiệp Trường phi công quân sự ở Liên Xô năm 1967 và trở thành sỹ quan lái máy bay chiến đấu của Trung đoàn Không quân Sao Đỏ, tham gia chiến đấu bảo vệ vùng trời Miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Vào đêm 27 tháng 12 năm 1972, theo tài liệu lịch sử chính thức của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông bắn rơi một máy bay B-52 của Mỹ, trở thành người đầu tiên bắn hạ được loại máy bay này từ trên không và trở về an toàn, nếu không kể một phi công khác tên là Vũ Xuân Thiều đã tiêu diệt máy bay B-52 của không quân Mỹ bằng cách đâm thẳng máy bay của mình vào đối phương[1]. Tài liệu này nói rằng, chiếcMiG-21 của Phạm Tuân cất cánh hồi 22 giờ 16 phút đêm 27 tháng 12 năm 1972 từ sân bay dã chiến Yên Bái, theo chiến thuật "đi thấp kéo cao", bỏ qua hai tốp F4 để tiếp cận hai chiếc B-52, bắn rơi một chiếc trên vùng trời phía tây Hà Nội rồi trở về hạ cánh xuống sân bay Yên Bái. Do thành tích này, ông được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày 3 tháng 9 (1973), khi này ông đang là thượng úy biên đội trưởng thuộc Đại đội 5, trung đoàn 921, Sư đoàn Không quân 371.

 Chiếc máy bay MIG21MF mang số hiệu 5121 mà Phạm Tuân đã điều khiển và bắn rơi một máy bay B52 vào ngày 27/12/1972
 Năm 1978 Phạm Tuân được cử đi học tại Học viện Không quân Gagarin (Liên Xô), năm sau chuyển loại sang bay vũ trụ. Phạm Tuân được chọn vào đội bay quốc tế thứ sáu trong chương trình Intercosmos của Liên Xô ngày 1 tháng 4 năm 1979. Cùng được chọn với ông còn có phi công dự phòng Bùi Thanh Liêm, người sau này tử nạn trong một tai nạn máy bay chiến đấu.
 Phạm Tuân, cùng với nhà du hành vũ trụ Xô viết Viktor Vassilyevich Gorbatko được phóng vào không gian từ sân bay vũ trụ Baikonurtrên tàu Soyuz 37 vào ngày 23 tháng 7 năm1980, tức ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Thân, và trở về Trái Đất ngày 31 tháng 7. Họ thực hiện nhiệm vụ trên trạm không gian Salyut 6 cùng với hai nhà du hành vũ trụ Xô viết khác.
 Trong toàn bộ thời gian trên quỹ đạo, Phạm Tuân đã tiến hành các thí nghiệm về hòa tan các mẫu khoáng chất trong tình trạng không trọng lực. Ông cũng tiến hành các thí nghiệm cây trồng trên bèo hoa dâu. Phạm Tuân cũng chụp ảnh Việt Nam từ quỹ đạo Trái Đất.
 Phạm Tuân ở trong không gian trong vòng 7 ngày, 20 giờ và 42 phút. Ông đã thực hiện tổng cộng 142 vòng quỹ đạo quanh Trái Đất.
 Với thành tích này, ông được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động Việt Nam (1980), kèm theo Huân chương Hồ Chí Minh ở tuổi 33, cấp bậc trung tá. Cùng năm đó, ông cũng vinh dự trở thành một trong những người nước ngoài đầu tiên được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, kèm theo Huân chương Lenin[2]. Như vậy ông là người Việt Nam duy nhất ba lần được trao tặng danh hiệu Anh hùng (Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Anh hùng Lao động của Việt Nam, Anh hùng Liên Xô).
 Ông còn được trao Giải thưởng Pyotr Đại đế đầu tiên do Quỹ những nhà quản lý giỏi nhất thời đại mới của Nga tổ chức.
 Ông tốt nghiệp Học viện Không quân Gagarin (Liên Xô) năm 1982.
 Năm 1989 ông là Phó Tư lệnh Chính trị Quân chủng Không quân. Ông hiện mang quân hàm Trung tướng (từ 1999) của không quân Việt Nam, giữ chức Tổng cục trưởng Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng trực thuộc Bộ Quốc phòng (từ 2000), và là đại biểu Quốc hội Việt Nam. Ông có vợ là thượng tá bác sĩ quân y Trần Thị Phương Tiến và hai con.
 Ngày 31 tháng 12 năm 2007, Phạm Tuân về nghỉ hưu theo quyết định của Chính phủ.

 1996-1999: Thiếu tướng Hán Vĩnh Tưởng

Lực lượng không quân Việt Nam hiện nay
Hầu hết các máy bay của Không quân nhân dân Việt Nam được cung cấp bởi Liên Xô. Một phần do Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa bỏ lại sau Chiến tranh Việt Nam. Một số lớn máy bay này đến nay đã không còn sử dụng được nữa.
Lực lượng máy bay hiện nay (con số ước lượng)
Tên máy bay Nước sản xuất Chủng loại Phiên bản Số lượng Ghi chú
Máy bay tiêm kích

Sukhoi Su-30MK2V
Nga
Máy bay tiêm kích cao cấp Su-30MK2V 4 6 chiếc đặt mua 2008 + 8 chiếc đặt mua 1-2009 + 12 chiếc đặt mua 2-2010, đang chờ chuyển giao.
Sukhoi Su-27SK/UB Flanker
Nga
Máy bay tiêm kích cao cấp Su-27 36SK & 4UBK( phiên bản 2 chỗ ngồi ) Một chiếc bị rơi trong khi bay tập
Mikoyan-Gurevich MiG-23ML/UB Flogger G
Liên Xô
Máy bay tiêm kích cao cấp MIG-23 36[6]
2 chiếc bị rơi trong 1 buổi tập gần căn cứ Cam Ranh 2004[cần dẫn nguồn]

Mikoyan-Gurevich MiG-21Bis Fishbed L/N
Liên Xô
Mày bay tiêm kích MiG-21 250
Sukhoi Su-22M3/4 Fitter-J/K
Liên Xô
Máy bay tấn công mặt đất Su-22 150 1 chiếc bị rơi tại Thanh Hóa ngày 9/6/2009 khiến phi công Trần Thanh Nghị tử nạn
Máy bay huấn luyện

Mikoyan-Gurevich MiG-21 Fishbed
Liên Xô
Máy bay phản lực (huấn luyện) MiG-21 24 1 chiếc bị rơi tại Yên Bái ngày 12/11/2009 khiến 2 phi công tử nạn gồm có thượng tá Nguyễn văn Vinh trung đoàn trưởng trung đoàn không quân 931 và thượng úy Đặng hồng Vinh (nguồn: VNExpress.net)
Aero L-39 Albatros
Tiệp Khắc
Máy bay phản lực (huấn luyện) L-39C 34
Yakovlev Yak-52
Liên Xô
Máy bay cánh quạt (huấn luyện) Yak-52 36
Máy bay vận tải và một số máy bay của hãng Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) có thể được trưng dụng vào vận tải quân sự

Lockeed C-130B/E Hercules
Hoa Kỳ
Máy bay vận tải hạng trung Tổng cộng
C-130B
C-130E 7
3
4 sẽ hoạt động trở lại vào năm 2014-2015
Antonov An-26 Curl
Liên Xô
Máy bay vận tải An-26 48
Antonov An-24 Coke
Liên Xô/ Ukraina
Máy bay vận tải đường bay nội địa An-24 12
Antonov An-38
Liên Xô
Máy bay vận tải An-38 6 Phiên bản mở rộng của An-28

PZL M-28 Skytruck
Ba Lan
Máy bay vận tải PZL M-28 9+2 Phiên bản mở rộng với tầm bay cao. 1 chiếc bị rơi, 2 sẽ được chuyển giao
Antonov An-2 Colt
Liên Xô
Máy bay vận tải cánh quạt sử dụng đường băng ngắn An-2 15 Ít nhất 5 chiếc sẽ được trang bị 5 ống phóng rocket Ub-16 để dùng cho nhiệm vụ tấn công trong tuần tra trên không (FAC)
Yakovlev Yak-40 Codling
Liên Xô
Vận chuyển nhân vật quan trọng Yak-40 15
Máy bay tuần tra biển

Beriev Be-12 Mail
Liên Xô
Thủy phi cơ oanh tạc/chống ngầm/tuần tra biển Be-12 4
Máy bay trinh sát

Antonov An-30 Clank
Liên Xô
Máy bay trinh sát An-30 8
CASA C.212 Aviocar
Tây Ban Nha Máy bay trinh sát CASA C.212-400 3
Trực thăng chiến đấu
Mil Mi-24 Hind Liên Xô Trực thăng chiến đấu Mil Mi-24A/D 36
Trực thăng vận tải
Mi-8 Hip Liên Xô Trực thăng vận tải Mil Mi-8 66
Mi-17 Hip-H Liên Xô Trực thăng vận tải Tổng cộng
Mil Mi-17Sh
Mil Mi-172 69
27
18
Mi-6 Hook-A Liên Xô Trực thăng vận tải hạng nặng Mi-6 10-15
PZL W-3 Sokol
Ba Lan
Trực thăng vận chuyển nhân vật quan trọng/Trực thăng cứu hộ Tổng cộng
PZL W-3S
PZL W-3RM 8
4
4
Kamov Ka-32S Helix-C
Liên Xô
Trực thăng cứu hộ Ka-32 5
Kamov Ka-25 Hormone
Liên Xô
Trực thăng chống ngầm Ka-25 6
Ka-27 Helix
Liên Xô
Trực thăng chống ngầm Ka-27 19
Eurocopter Dauphin
Pháp
Trực thăng chống ngầm SA-365 N2 5 nhận được từ Bộ quốc phòng

Eurocopter Ecureuil
Pháp
Trực thăng đa chức năng hạng nhẹ AS-350 B3 5 nhận được từ Bộ quốc phòng

Aérospatiale Puma
Pháp
Trực thăng dân dụng SA-330J 9 nhận được từ Bộ quốc phòng

Aérospatiale Super Puma
Pháp
Trực thăng dân dụng AS-332L2 7 nhận được từ Bộ quốc phòng. Một chiếc Super Puma mất tích khi đang làm nhiệm vụ chuyên chở cho một nhà giàn ở ngoài khơi vào năm 2007.
UH-1H Huey
Hoa Kỳ
Trực thăng đa chức năng UH-1H 15 Hoạt động trở lại vào năm 2007.
Các máy bay loại khác
VNS-41
Việt Nam
Thủy phi cơ hạng nhẹ VNS-41 7-12? ULM là thủy phi cơ hạng nhẹ, được nghiên cứu chế tạo thử nghiệm trong nước từ tháng 6 năm 2003.[10]

M-400 UAV
Việt Nam
Máy bay trinh sát không người lái M-400 12? Tự sản xuất từ [1] Không còn được sử dụng do thiếu thiết bị điện tử GPS.
Năm 1996, Không quân nhân dân Việt Nam đã đàm phán mua 2 phi đội máy bay Dassault Mirage 2000 từ Pháp nhưng bị ngăn cản vìlệnh cấm vận quân sự của Hoa Kỳ với Việt Nam.
Các máy bay không còn sử dụng
 Tiệp Khắc Zlin Z-226 Trener - Máy bay huấn luyện cơ bản (8)
 Tiệp Khắc Aero Ae-45 - Máy bay huấn luyện (3)
 Tiệp Khắc Aero L-29 Delfin - Máy bay phản lực huấn luyện (12)
 Liên Xô Lisunov Lisunov Li-2 Cab - Máy bay vận tải (24)
 Liên Xô Ilyushin Il-28 Beagle - Máy bay oanh tạc hạng trung (16)
 Liên Xô Ilyushin Il-14 Crate- Máy bay vận tải (45)
 Liên Xô Ilyushin Il-18 Coot - Máy bay vận tải (7)
 Liên Xô Mikoyan-Gurevich MiG-15 Fagot - Máy bay tiêm kích phản lực (50)
 Liên Xô Mikoyan-Gurevich MiG-17 Fresco - Máy bay tiêm kích phản lực (77)
 Liên Xô Mikoyan-Gurevich MiG-19 Farmer - Máy bay tiêm kích phản lực (45)
 Liên Xô Sukhoi Su-7 Fitter- Máy bay tiêm kích-ném bom (30)
 Liên Xô Mil Mi-2 Hoplite Trực thăng hạng nhẹ chở bộ binh(24)
 Hoa Kỳ Douglas A-1 Skyraider - máy bay cánh quạt cuờng kích (24)
 Hoa Kỳ Cessna A-37 Dragonfly - máy bay phản lực cường kích (15 chiếc loại này đã dược bán thanh lý)
 Hoa Kỳ Northrop F-5 Freedom Fighter - máy bay tiêm kích siêu âm hạng nhẹ (18 chiếc loại này đã được bán thanh lý)
 Hoa Kỳ Douglas C-47 Skytrain - Máy bay vận tải (13)
 Hoa Kỳ Fairchild C-119 Flying Boxcar - Máy bay vận tải hạng trung (4)
 Hoa Kỳ Boeing CH-47 Chinook - Trực thăng vận tải hạng nặng (23)
 Hoa Kỳ Cessna O-1 Bird Dog - Chỉ huy chiến trường/trinh sát chụp ảnh (13)
 Hoa Kỳ North American T-28 Trojan - Huấn luyện cơ bản/tấn công ban ngày (14)
 Hoa Kỳ Cessna T-37 Tweet - Máy bay phản lực dùng cho huấn luyện (9)
Một vài trực thăng loại UH-1 Huey, máy bay chiến đấu phản lực F-5, A-37 đã được bán đấu giá vào năm 1998 và hiện đang thuộc quyền sở hữu của một vài doanh nghiệp và cá nhân thuộc Hoa Kỳ, Úc, New Zealand và Châu Âu.
Các trung đoàn, sư đoàn bay

Máy bay trinh sát M-28 tại Gia Lâm, Hà Nội
Tên Loại máy bay sử dụng Vị trí
Quân chủng Hà Nội

Sư đoàn 371 Thăng Long Nội Bài

Trung đoàn 921 Sao Đỏ MiG-21bis/UM
Nội Bài

Trung đoàn 925 MiG-21bis/UM
Kiến An

Trung đoàn 927 Lam Sơn MiG-21bis/UM
Kép

Trung đoàn 931 MiG-21bis/UM, Su-27
Yên Bái

Trung đoàn 916 Ba Vì Mi-6, Mi-8, Mi-24D
Hòa Lạc

Trung đoàn 918 Hồng Hà An-26, An-30, Yak-40, M-28
Gia Lâm

Sư đoàn 370 Lê Lợi Tân Sơn Nhất

Trung đoàn 937 Hậu Giang Su-22M-4/UM-3K
Phan Rang

Trung đoàn 935 Đồng Nai Su-27/UB, Su-30MKV
Biên Hòa

Trung đoàn 917 Đồng Tháp An-2, An-26, Mi-8
Tân Sơn Nhất

Sư đoàn 372 Hải Vân Đà Nẵng

Trung đoàn 923 Yên Thế Su-22M-4/UM-3K
Thọ Xuân

Trung đoàn 929 MiG-21bis/UM
Đà Nẵng

Trung đoàn 954 Ka-26, Ka-32, Mi-17
Đà Nẵng

Trung đoàn 910 L-39C, Yak-18
Tuy Hoà

Trung đoàn 920 L-39C, Yak-18
Nha Trang

Trung đoàn 940 L-39C, Yak-18
Phù Cát

Tiểu đoàn căn cứ sân bay Vinh Vinh

Tiểu đoàn căn cứ sân bay Pleiku Pleiku

Ka 25 và Ka 28 đang có mặt tại Phan Rang
Kế hoạch hiện tại của Không quân Nhân dân Việt Nam là, cho đến năm 2015 sẽ tiếp tục thành lập thêm 3 trung đoàn không quân với cơ số 3 x 24 chiếc Su-30.
Các trường không quân ở Nha Trang và Sơn Tây là hai nơi đào tạo phi công cho không quân hiện nay.
Các căn cứ không quân
Đang sử dụng
Môt số sân bay và căn cứ không quân ở miền Nam Việt Nam được xây dựng bởi Không lực Hoa Kỳ hoặc Hải quân Hoa Kỳ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Những sân bay ở miền Bắc Việt Nam có thể được xây dựng dưới sự giúp đỡ của Liên Xô trong Chiến tranh Việt Nam.
 Operation Cleansweep
 Căn cứ không quân Nội Bài (cạnh sân bay quốc tế Nội Bài)
 Căn cứ không quân Kép
 Căn cứ không quân Biên Hòa
 Sân bay Đồng Hới - được nâng cấp, sửa chữa để phục vu cho các chuyến bay thương mại
 Sân bay Hòa Lạc
 Sân bay Gia Lâm
 Sân bay Kiến An
 Sân bay Lam Sơn
 Căn cứ không quân Đà Nẵng (cạnh sân bay quốc tế Đà Nẵng)
 Sân bay Nha Trang - ngừng hoạt động vào năm 2005 và được thay thế bởi sân bay Cam Ranh
 Sân bay Anh Sơn
 Căn cứ không quân Thành Sơn
 Căn cứ không quân Tân Sơn Nhất (cạnh sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất)
 Căn cứ không quân Thanh Hóa
 Sân bay Trường Sa
 Căn cứ không quân Yên Bái
 Sân bay Cam Ranh - phục vu cho các chuyến bay thương mại từ năm 2005
 Sân bay Vũng Tàu dành cho các trực thăng thực hiện nhiệm vụ ở ngoài khơi xa
 Sân bay Phù Cát đã chuyển cho Cụm cảng hàng không miền Trung sử dụng từ năm 2008.
Không còn sử dụng
 Bến Tre – Sân bay Bến Tre
 Biên Hòa – Sân bay Xuân Lộc
 Bình Thuận – Sân bay Phan Thiết (đang có dự án mở lại)
 Cần Thơ – Căn cứ không quân Bình Thuỷ - đã hoạt động trở lại và được nâng cấp để phục vụ cho nhiệm vụ hậu cần không quân
 Đắc Lắc – Sân bay An Khê
 Hà Nội – Sân bay Bạch Mai
 Long An – Sân bay Tân An
 Quảng Trị – Sân bay Ái Tử
 Tây Ninh – Sân bay Tây Ninh
 Trà Vinh – Sân bay Trà Vinh
 Tuy Hoà – Sân bay Phú Lâm (đang có dự án mở lại)
 Vĩnh Long – Sân bay Vĩnh Long
Một số trận không chiến tiêu biểu
Chiến công đầu tiên của Không quân Việt Nam do Trung đoàn không quân vận tải 919 lập. Đêm 15 tháng 2 năm 1965, chiếc máy bay T28 (thu được do một phi công phản chiến hạ cánh xuống san bay Bạch Mai) do Nguyễn Văn Ba làm lái chính, Lê Tiến Phước làm lái phụ bắn rơi tại chỗ một chiếc máy bay C123 của Mỹ gần biên giới Việt-Lào. Nguyễn Văn Ba đã được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào tháng 8 năm 1995.
Trận không chiến đầu tiên của MiG-17 là vào ngày 3 tháng 4 năm 1965, tại trận đánh bảo vệ cầu Đò Lèn, Thanh Hóa với phi đội 4 chiếc MiG-17 đã tấn công vào đội hình máy bay A4D và F8 mang bom của Hải quân Hoa Kỳ. Hai chiếc F-8 Crusaders đã bị bắn trúng nhưng không rơi tại chỗ mà cố chạy được ra biển. Ba chiếc MiG-17 về hạ cánh an toàn, một chiếc của phi đội trưởng Phạm Ngọc Lan hết dầu phải hạ cánh xuống bãi sông Đuống.
Trận đánh tiếp theo diễn ra ngay hôm sau với 3 phi đội cất cách, trong đó có 2 phi đội nghi binh và bảo vệ, một phi đội công kích thẳng vào tốp F-105 mang bom tấn công cầu Hàm Rồng, Thanh Hóa do Thiếu tá Frank Bennett làm dẫn đầu. Phía Mỹ có 2 chiếc F-105 bị MiG-17 bắn trúng. Chiếc do Đại úy James Magnusson lái rơi trên đường thoát ra biển, chiếc do Thiếu tá Frank Bennett rơi khi hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Đà Nẵng. Cả hai phi công đều chết. Phía Không quân Việt Nam mất 3 chiếc MiG. Một chiếc do Lê Minh Huân lái rơi gần bờ biển Sầm Sơn, gần xác chiếc F-105 do chính anh bắn hạ. Hai chiếc còn lại, do Phạm Giấy và Trần Nguyên Năm lái, bị rơi ở gần khu vực cầu Hàm Rồng. Cả 3 chiếc đều không có ghi nhận nào bị bắn rơi từ phía Mỹ, có khả năng bị chính súng phòng không của Việt Nam bắn rơi. Một chiếc duy nhất còn lại, do phi đội trưởng Trần Hanh lái và cũng là chiếc đã bắn hạ Thiếu tá Frank Bennett, hết dầu và hỏng la bàn nên phải hạ cánh xuống lòng một con suối cạn thuộc bản Ké Tằm, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
Chiến công đầu tiên của MiG-21 là bắn rơi máy bay do thám không ngưòi lái Ryan Firebee của phi công Nguyễn Hồng Nhị vào ngày 4 tháng 3 năm 1966.
Không quân Việt Nam ghi nhận có 3 trường hợp MiG-21 tấn công pháo đài bay B-52 và họ tự hào là lực lượng không quân duy nhất trên thế giới tấn công trực tiếp được loại máy bay này thời bấy giờ. Trường hợp đầu tiên do phi công Vũ Đình Rạng bắn trúng B-52 ngày 20 tháng 11 năm 1971. Chiếc B-52 bị hư hỏng nặng, phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Nakhom-Phanom, Thái Lan. Trường hợp thứ hai được phía Việt Nam ghi nhận là do Phạm Tuân bắn rơi tại chỗ vào ngày 27 tháng 12 năm 1972. Trường hợp thứ ba diễn ra ngay vào ngày hôm sau, 28 tháng 12 năm 1972, được ghi nhận do phi công Vũ Xuân Thiều thực hiện. Một số bài báo viết rằng sau khi đã phóng đi cả hai quả tên lửa mà không hạ được B-52, Vũ Xuân Thiều đã lao máy bay của mình vào hạ B-52 theo lối đánh cảm tử. Tuy nhiên, nhiều tài liệu lịch sử của Phòng không và Không quân nhân dân Việt Nam xác định do bắn B-52 ở cự ly quá gần nên máy bay của Vũ Xuân Thiều bị các mảnh nổ của B-52 văng ra, bốc cháy và rơi cách chiếc B-52 bị anh hạ khoảng 1 km tại Phù Yên, Sơn La.
Trận không chiến cuối cùng giữa Không quân Việt Nam và Không quân Mỹ diễn ra vào ngày 27 tháng 12 năm 1972. Phía Việt Nam công bố, chiếc máy bay MiG-21 do phi công Trần Việt điều khiển đã bắn hạ 3 chiếc F-4. Phía Mỹ chỉ công nhận rơi 2 chiếc.
Một số máy bay MiG-21 nổi tiếng

Chiếc máy bay tiêm kích MIG 17 mang số hiệu 2011 mà Ngô Đức Mai đã lái hôm 12/5/1967 và bắn hạ máy bay của Norman Cagadixo.

MiG-21 F94 số 5020 của Đoàn 927 Không quân Nhân dân Việt Nam đã được nhiều anh hùng lục lượng vũ trang Việt Nam lái trong thời gian Chiến tranh Việt Nam.
Một số chiếc máy bay MiG-21 nổi tiếng được ghi nhận:
 Chiếc MiG-21 F-13 số hiệu 4420 do phi công Nguyễn Ngọc Độ (đoàn 921) lái. Chiếc này đã hạ 6 máy bay đối phương.
 Chiếc MiG-21 F-13 số hiệu 4520 do phi công là Phạm Thanh Ngân (đoàn 921) lái, hạ 8 máy bay. Hiện được trưng bày tại bảo tàng quân đội Thái Nguyên.
 Chiếc MiG-21 PF số hiệu 4324 thuộc đòan 921, được sử dụng bởi 9 phi công khác nhau trong đó có phi công "Át" Nguyễn Đăng Kỉnh. Chiếc này đã bắn rơi 14 máy bay trong khoảng thời gian tháng 11 năm 1967 đến tháng 5 năm 1968, trong đó Nguyễn Đăng Kỉnh đã hạ 6 chiếc. Đây là chiếc máy bay "may mắn" vì không chỉ nó có số lượng máy bay do nó bắn hạ cao nhất (14 chiếc) mà phi công nào sử dụng nó cũng đều bắn hạ đối phương. Hiện nay máy bay này đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam ở Hà Nội.
 Chiếc MiG-21 PF số hiệu 4326 (đoàn 921) cũng hạ được nhiều máy bay (13 chiếc) và được nhiều phi công sử dụng, trong đó có phi công Nguyễn Văn Cốc từng hạ 9 chiếc cao nhất Không quân Việt Nam. Hiện nay chiếc 4326 đang được trưng bày tại bảo tàng Phòng Không, sân bay Bạch Mai, Hà Nội.
 Chiếc MiG-21 PFM số hiệu 5020 (đoàn 927) là máy bay được nhiều "Át" sử dụng nhất, gồm Nguyễn Tiến Sâm (hạ được 6 máy bay), Lê Thanh Đạo (hạ được 6 máy bay), Nguyễn Đức Soát (hạ được 6 máy bay), và Nguyễn Văn Nghĩa (hạ được 5 máy bay). Bản thân chiếc máy bay này cũng hạ gục được 12 máy bay đối phương. Chiếc này đang được trưng bày tại bảo tàng Quân chủng Phòng không - Không quân Hà Nội.
 Chiếc MiG-21 MF số hiệu 5121 từng được Phạm Tuân sử dụng và dùng nó để bắn hạ B-52 đêm ngày 27 tháng 12 năm 1972. Chiếc này cũng từng bắn hạ được 8 máy bay đối phương và hiện được trưng bày tại Bảo tàng Không quân Hà Nội.
 Chiếc MiG-21 PFM số hiệu 5033 (đoàn 921) là chiếc máy bay tham dự trận không chiến cuối cùng giữa MiG-21 và F-4 vào ngày 27 tháng 12 năm 1972, do phi công Trần Việt lái. Phía Việt Nam ghi nhận ngày hôm đó, chiếc máy bay này đã bắn rơi 3 chiếc F-4, nhưng người Mỹ chỉ công nhận hai chiếc rơi.
 Mig-21 PFM 5040: phi công Lê Thanh Đạo (sau này làm Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Phó trưởng ban Dân vận TW), đoàn không quân Lam Sơn. Điểm đặc biệt của chiếc này là được sơn nguỵ trang toàn bộ bằng màu xanh đậm.
 Mig-21 PFM 5066: không có thông tin về phi công. Lúc đầu máy bay phục vụ trong đoàn Sao Đỏ với màu metal bình thưòng; sau đó được chuyển về đoàn Lam Sơn với màu sơn nguỵ trang bằng cách sơn đè màu xanh lá cây đậm lên trên lớp kim loại tự nhiên ở một sồ chỗ, không sơn phủ toàn bộ như 5040. Chiếc này từng đánh chặn (intercept) một chiếc B-52 vào ngày 13 tháng 4 năm 1972 trên bầu trời Thanh Hoá. Đồng thời không có thông tin nào về hoạt động quân sự của Mig-21 PFM 5071 trong cuộc kháng chiến.
 Mig-21 PFM 6122: chiếc này thuộc đoàn Lam Sơn, sau khi giải phóng miền Nam, toàn bộ Mig-21 PFM còn sử dụng được đều chuyển về cho đoàn 372 (Hải Vân) tại Đà Nẵng. Chiếc này của quân đội Xô Viết được sơn nguỵ trang theo kiểu của Khối Warszawatrước khi đến Việt Nam. Màu sơn nguỵ trang này không thay đổi, chỉ có số hiệu máy bay và huy hiệu được thay đổi theo Không quân Việt Nam. Chiếc này đang được trưng bày tại bảo tàng của sân bay Đà Nẵng.
Các phi công nổi tiếng

Chiếc MIG-21 số hiệu 4324 này (do nhiều phi công khác nhau lái) đã bắn hạ 14 máy bay Mỹ từ tháng 1 1967 đến tháng 5 1969. 6 phi công lái chiếc MIG-21 này đã được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
 Nguyễn Văn Cốc, bắn rơi 9 máy bay
 Phạm Thanh Ngân, bắn rơi 8 máy bay
 Nguyễn Hồng Nhị, bắn rơi 8 máy bay
 Mai Văn Cường, bắn rơi 8 máy bay
 Nguyễn Văn Bảy, bắn rơi 7 máy bay
 Đặng Ngọc Ngự, bắn rơi 7 máy bay
 Nguyễn Đức Soát, bắn rơi 6 máy bay
 Nguyễn Ngọc Độ, bắn rơi 6 máy bay
 Nguyễn Nhật Chiêu, bắn rơi 6 máy bay
 Vũ Ngọc Đỉnh, bắn rơi 6 máy bay
 Lê Thanh Đạo, bắn rơi 6 máy bay
 Nguyễn Tiến Sâm, bắn rơi 6 máy bay
 Lê Hải Mig-17, bắn rơi 6 máy bay
 Lưu Huy Chao, bắn rơi 6 máy bay
 Nguyễn Phi Hùng, Mig-17, bắn rơi 5 máy bay
 Nguyễn Văn Hùng, bắn rơi 6 máy bay
 Nguyễn Văn Nghĩa hạ được 5 máy bay
 Lâm Văn Lích
 Đồng Văn Đe
 Đinh Tôn
 Vũ Đình Rạng phi công đầu tiên bắn trúng B-52
 Phạm Tuân bắn rơi siêu pháo đài bay B52 của Mỹ
 Bùi Thanh Liêm
 Vũ Xuân Thiều được cho là hi sinh cùng chiếc B-52 bị anh bắn hạ
 Hồ Duy Hùng
 Nguyễn Thành Trung
 Hà Văn Chúc hạ 1 máy bay và rút lui an toàn trong trận đánh đơn độc với 36 máy bay Mĩ
 Trần Việt hạ 3 máy bay chỉ trong 1 phi vụ xuất kích
 Chu Văn Thanh hai lần rơi máy bay.
 Sư đoàn 371 (Đoàn B71 hay Đoàn Thăng Long), thành lập ngày 24 tháng 3 năm 1967.
 Sư đoàn 372 (Đoàn B72)đóng quân tại Sân bay Đà nẵng- TP Đà nẵng
 Sư đoàn 370 (Đoàn B70) đóng quân tại sân bay Tân Sơn Nhất - TPHCM
 Binh chủng Không quân tiêm kích-bom
 Binh chủng Không quân vận tải
 Binh chủng Không quân trinh sát
Các cơ quan và đơn vị trực thuộc
 Bộ Tham mưu
 Cục Chính trị
 Bảo tàng Không quân. Địa chỉ: 86 đường Trường Chinh, Hà Nội. Hoạt động từ ngày 3 tháng 4 năm 1985.
 Bảo tàng Phòng không. Địa chỉ: 176 đường Trường Chinh, Hà Nội. Ra đời ngày 25 tháng 12 năm 1959 với tên gọi Nhà truyền thống Bộ Tư lệnh Phòng không, mở cửa tại 176 đường Trường Chinh từ ngày 1 tháng 4 năm 1979.
 Cục Hậu cần
 Cục Kỹ thuật
 Cục Phòng không Lục quân. Là cơ quan tham mưu giúp Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân Việt Nam và Bộ Quốc phòng chỉ đạo tác chiến, huấn luyện, xây dựng lực lượng phòng không 3 thứ quân. Thành lập ngày 5 tháng 6 năm 1968 với tên gọi Phòng Cao xạ dã chiến; đến ngày 10 tháng 7 năm 1979 đổi thành Cục Phòng không dã chiến; từ 25 tháng 8 năm 1988 mang tên gọi như hiện nay.
Cục trưởng: Thiếu tướng Nguyễn Văn Chương
 Học viện Phòng không - Không quân.
 Thành lập năm 1986.
Học viện Phòng không - Không quân Việt Nam là một học viện quân sự trực thuộc Quân chủng Phòng không- Không quân- Bộ Quốc phòng Việt Nam, chuyên đào tạo sĩ quan chỉ huy tham mưu phòng không- không quân bậc đại học, cao đẳng, kỹ sư hàng không và đào tạo sau đại học.
 Ngày truyền thống: 16/07/1964 {ngày thành lập Trường Sĩ quan Pháo cao xạ}
 Trụ sở chính: xã Kim Sơn và xã Trung Sơn Trầm, ngoại ô thị xã Sơn Tây, Hà Nội.
 Cơ sở 2: số 128A, đường Hoàng Văn Thái, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
 Giám đốc: Đại tá, thạc sỹ Trần Văn Thanh
 Phó giám đốc
1. Đại tá, Tiến sỹ Nguyễn Quang Bộ
2. Đại tá, Tiến sỹ Nguyễn Văn Sinh
3. Đại tá, Tiến sỹ Lê Chí Thanh
 Chính ủy: Đại tá, Phạm Thanh Liêm.
 Phó chính ủy: Đại tá Lê Huy Hiền
Các phòng chức năng, gồm 6 phòng: Chính trị; Đào tạo; Khoa học - công nghệ & Môi trường; Hậu cần; Kỹ thuật; Tham mưu - Hành chính. Các khoa, gồm 14 khoa: Khoa học cơ bản; Kỹ thuật cơ sở; Lý luận Mác - Lênin; Công tác Đảng, Công tác chính trị; Kỹ thuật hàng không; Tên lửa; Ra đa; Pháo phòng không; Dẫn đường - Thông tin - Khí tượng; Chỉ huy hậu cần; Chỉ huy tham mưu; Chiến thuật chiến dịch; Quân sự chung; Giáo dục Quốc phòng. Các đơn vị quản lý học viên, gồm 5 hệ (1; 2; 3; 4 và 10), 04 tiểu đoàn (4; 5; 6 và 7). 01 Trung tâm huấn luyện thực hành.
Đội ngũ giảng viên
 100% giảng viên có trình độ đại học và sau đại học. Trong đó có 01 Giáo sư, 05 Phó Giáo sư, 32 Tiến sĩ, 01 Nhà giáo nhân dân, 13 nhà giáo ưu tú.
Các ngành đào tạo đại học
 Chỉ huy Tham mưu phòng không(gồm Pháo phòng không, tên lửa phòng không và ra đa);
 Máy bay động cơ;
 Thiết bị hàng không;
 Vũ khí hàng không;
 Vô tuyến điện hàng không;
 Dẫn đường Không quân;
 Tham mưu tác huấn KQ.
Các phòng ban chức năng
 Phòng Chính trị
 Phòng Đào tạo
 Phòng Tham mưu-Hành chính
 Phòng Hậu Cần
 Phòng Kỹ thuật
 Phòng Khoa học Công nghệ và Môi trường
Các khoa và chuyên ngành đào tạo
 Khoa Chiến thuật, chiến dịch
 Khoa Chỉ huy tham mưu
 Khoa Công tác Đảng, Công tác chính trị
 Khoa Lý luận Mác-Lênin
 Khoa Kỹ thuật hàng không
 Khoa Pháo phòng không
 Khoa Tên lửa phòng không
 Khoa Ra-đa
 Khoa Dẫn đường-Thông tin-Khí tượng
 Khoa Quân sự chung
 Khoa Khoa học cơ bản
 Khoa Kỹ thuật cơ sở
 Khoa Chỉ huy Hậu cần
 Trung tâm Huấn luyện thực hành
Lịch sử
Học viện Phòng không
 Ngày 18/07/1957, Phân khoa pháo binh của Trường Sĩ quan Lục quân 1 được tách ra để thành lập Trường Sĩ quan Pháo binh, trong đó có Hệ cao xạ. Tính đến tháng 5-1964, Trường Sĩ quan Pháo binh đã đào tạo bổ túc và chính quy được 4 khóa cán bộ quân sự, chính trị cao xạ từ cấp phân đội đến cấp trung đoàn. Hệ Cao xạ thuộc Trường Sĩ quan Pháo binh ra đời, đánh dấu mốc mở đầu cho việc đào tạo sĩ quan Phòng không – Không quân sau này.
 Ngày 16/07/1964, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trường sỹ quan Cao xạ trực thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân.
 Ngày 19/03/1966, Bộ Tổng tham mưu và Tổng cục Chính trị giao nhiệm vụ cho Nhà trường đào tạo cán bộ trung đội trưởng pháo cao xạ 37mm trở lên cho toàn quân và đào tạo trung đội trưởng súng máy 12,7mm và 14,5mm. Bổ túc cán bộ quân sự đại đội và đào tạo cán bộ chính trị viên đại đội.
 Ngày 17/03/1967, nhà trường khai giảng lớp bổ túc cán bộ trung cao cấp pháo cao xạ đầu tiên, thời gian 3 tháng.
 Ngày 6/5/1967, nhà trường khai giảng Lớp trung đội trưởng radar trinh sát, đáp ứng kịp thời nhiệm vụ cảnh giới và dẫn đường cho bộ đội Không quân.
 Ngày 24/07/1967, Bộ Tư lệnh Quân chủng quyết định thành lập tiểu đoàn 5 thuộc Trường sỹ quan Cao xạ, có nhiệm vụ đào tạo, bổ túc cán bộ chỉ huy các cấp cho Binh chủng tên lửa.
 Ngày 11 tháng 8, nhà trường tổ chức khai giảng khóa đầu tiên bổ túc cán bộ chỉ huy tên lửa, thời gian 4 tháng.
 Ngày 15/12/1967, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định đổi tên Trường sỹ quan Cao xạ thành Trường sỹ quan Phòng không.
 Ngày 27/02/1971, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân ra quyết định hợp nhất Trường sỹ quan Phòng không và Trường kỹ thuật Phòng không thành Trường Phòng không.
 Ngày 7/6/1973, Do nhu cầu phát triển của Nhà trường và được sự đồng ý của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân Quyết định tách Trường Phòng không thành 2 trường: Trường sỹ quan Phòng không và Trường Kỹ thuật Phòng không (như trước khi hợp nhất 27-2-1971).
 Tháng 9/1975, Chấp hành Chỉ thị của Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân về việc sáp nhập một phần của Trường Kỹ thuật Phòng không về Trường sỹ quan Phòng không và đổi tên Trường sỹ quan Phòng không thành Trường Phòng không.
 Ngày 15/01/1978, Thực hiện Chỉ thị của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân chủng, một bộ phận của Trường Kỹ thuật được tách ra khỏi trường và Trường Phòng không lại được đổi tên là Trường sỹ quan Phòng không.
 Ngày 22/08/1978, Tư lệnh Quân chủng Phòng không ra quyết định thành lập cơ sở II Trường sỹ quan Phòng không ở Nha trang.
 Ngày 09/09/1978, Nhà trường khai giảng khóa 24, thí điểm đào tạo sỹ quan chỉ huy bậc đại học và kỹ sư khai thác sử dụng.
 Xuất phát từ yêu cầu xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng Quyết định củng cố các trường quân sự và thành lập thêm một số trường sỹ quan. Ngày 23/10/1980, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký Quyết định tách Trường sỹ quan Phòng không để thành lập hai trường: Trường sỹ quan Pháo phòng không vàTrường sỹ quan chỉ huy kỹ thuật tên lửa - radar.
 Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật Tên lửa - Radar: Đóng quân tại khu A (Trường sĩ quan Phòng không cũ) thuộc xã Trung Sơn Trầm.
 Trường sĩ quan Pháo phòng không đóng quân tại khu B (xã Kim Sơn) (Trường sĩ quan Phòng không cũ) và quản lý cả cơ sở 2 (ở Nha Trang).
 Ngày 14/06/1986, Trường Trung cao cấp Phòng không được thành lập trên cơ sở hai trường: Trường huấn luyện 582, Trường Đảng và 2 hệ đào tạo cán bộ trung đoàn của hai trường: Trường sĩ quan Pháo phòng không và Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật Tên lửa - Radar - theo quyết định số 751/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng. Trụ sở của trường ở Ngọc Hồi – Vĩnh Quỳnh – Thanh Trì (Hà Nội).
 Ngày 5/9/1987 Hệ đào tạo sỹ quan chỉ huy tham mưu cấp chiến thuật - chiến dịch thuộc Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật Tên lửa - Radar (gọi tắt là Hệ trung cấp - đào tạo cán bộ cấp Trung đoàn) được bàn giao về Trường Trung cao cấp Phong không quản lý và tiếp tục đào tạo.
 Ngày 15/11/1987, Chấp hành mệnh lệnh số 20/ML-TM ngày 18 tháng 7 năm 1987 của Bộ Tổng tham mưu về việc chấn chỉnh lại tổ chức và bố trí lực lượng trong Quân chủng Phòng không. Tư lệnh Quân chủng Phòng không ra Quyết định số 488/TCĐV về việc hợp nhất Trường sĩ quan pháo phòng không và Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật tên lửa - radar thành Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật Phòng không.
 Ngày 3 và 4/1/1992, Hội nghị về đào tạo theo chương trình Cao đẳng quân sự của Bộ Quốc phòng được tiến hành tại Nhà trường. Sau Hội nghị, Nhà trường đã tích cực triển khai, bổ sung hoàn thiện chương trình, xây dựng cơ sở vật chất để chuẩn bị cho huấn luyện theo chương trình mà Bộ Quốc phòng đã thông qua.
 Tháng 7/1992, Nhà trường tổ chức thi tuyển sinh quân sự theo phương thức mới trên cơ sở Thông tư tuyển sinh của Bộ Quốc phòng (Lần đầu tiên có cả học sinh phổ thông dự thi).
 Năm 1993, Học viện Phòng không được thành lập trên cơ sở hợp nhất Trường Sĩ quan Chỉ huy Kỹ thuật Phòng không và Trường trung cao cấp Phòng không. Nhiệm vụ của Học viện Phòng không là đào tạo sĩ quan chỉ huy phân đội và sĩ quan chỉ huy tham mưu cấp chiến dịch – chiến thuật có trình độ đại học, nghiên cứu khoa học quân sự và các nhiệm vụ được giao.
 Ngày 20/12/1995, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 834/TTg giao nhiệm vụ đào tạo đại học cho Học viện Phòng không.
 Ngày 11/11/1997, Bộ Giáo dục – Đào tạo ra Quyết định số 3615/GD-ĐT giao nhiệm vụ đào tạo cao học cho Học viện Phòng không chuyên ngành Nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật phòng không.
Học viện Không quân
 Ngày 25 tháng 1 năm 1979, được phép của Bộ Quốc phòng, Tư lệnh Quân chủng Không quân – Thiếu tướng Đào Đình Luyện, đã chỉ đạo thành lập Trướng tập huấn cán bộ Không quân. Địa bàn đóng quân của Trường tại phường Nguyễn Trãi, Quận Đống Đa, Hà Nội
 Tháng 6/1979, Nhà trường xây dựng xong quy trình đào tạo tổng thể cao đẳng kỹ thuật các chuyên ngành không quân. Được phép của Bộ Quốc phòng, Nhà trường nhận một số thí sinh thi vào trường Đại học Kỹ thuật Quân sự làm nguồn đầu vào đào tạo cao đẳng kỹ thuật Không quân khóa 1.
 Ngày 15/09/1979, Nhà trường tiếp nhận học viên chuyên tu chuyển cấp kỹ sư hàng không khóa 1 và tiếp nhận một số lượng đáng kể giảng viên chuyên ngành kỹ thuật hàng không từ Đại học Kỹ thuật Quân sự. Nhà trường liên kết đào tạo đào tạo kỹ sư hàng không hệ chuyên tu và cao đẳng không quân, thực hành thí nghiệm với Đại học Kỹ thuật Quân sự, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Tổng hợp Hà Nội, Viện Kỹ thuật Không quân, Cục Kỹ thuật Không quân.
 Ngày 29/1/1980, Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương và Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Không quân về cải cách giáo dục, Đảng ủy Nhà trường ra Nghị quyết số 70, Nghị quyết nêu rõ: Trước mắt Nhà trường có nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo và chuyển cấp kỹ sư thực hành các chuyên ngành không quân, đào tạo cán bộ sơ cấp chỉ huy có trình độ đại học, đào tạo sĩ quan ngắn hạn, và các nhiệm vụ khác.
 Đầu tháng 4/1980, Theo yêu cầu của Bộ Tư lệnh Không quân, Bộ Quốc phòng điều 6 cán bộ từ các đơn vị và 7 giảng viên chuyên ngành kỹ thuật hàng không của Đại học Kỹ thuật Quân sự bổ sung cho Nhà trường. Tổng số cán bộ khung và giảng viên của Nhà trường lúc này lên tới gần 100 người.
 Từ tháng 5/1980, Trường tập huấn cán bộ không quân được mang tên và con dấu “Trường Sĩ quan tham mưu Không quân”
 Năm học 1980-1981, Nhà trường được giao thêm nhiệm vụ:
 Bổ túc sĩ quan chỉ huy tham mưu không quân cấp trung đoàn, sư đoàn khóa I (sau này gọi là cấp chiến thuật-chiến dịch);
 Đào tạo cao đẳng Không quân khóa 2 (chương trình 4 năm rưỡi).
 Ngày 5/12/1980, nhà trường khai giảng lớp Bổ túc chỉ huy tham mưu Không quân cấp trung đoàn, sư đoàn khóa I.
 Trường Đảng Quân chủng Không quân được thành lập theo Quyết định số 944/QP ngày 13 tháng 7 năm 1981, có nhiệm vụ bổ túc và chuyển loại cán bộ chính trị. Khung Trường Đảng trực thuộc Cục Chính trị Quân chủng.
 Tháng 2/1982, Theo quyết định của Quân chủng, Trường Đảng Quân chủng sáp nhập vào Trường Sĩ quan tham mưu Không quân thành Phân hiệu trường Đảng trực thuộc Trường Sĩ quan tham mưu Không quân.
 Tháng 10/1983, Ngoài các đối tượng đang đào tạo, để đáp ứng nhu cầu về cán bộ, Quân chủng đã giao thêm nhiệm vụ cho Nhà trường: Bổ túc sĩ quan chỉ huy thông tin cấp chiến thuật chiến dịch và sĩ quan chỉ huy kỹ thuật cấp chiến thuật chiến dịch khóa I. Thời gian đào tạo: 10 tháng.
 Ngày 20/4/1985, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định sô 664/QĐ-QP về việc thành lập “Trường đào tạo, bổ túc cán bộ trung cấp, cao cấp Không quân” trực thuộc Bộ Tư lệnh Không quân gọi tắt là “Trường Trung cao Không quân”.
 Ngày 10/03/1990, Bộ Tư lệnh Quân chủng Không quân có Quyết định số 141/BTL ngày 10 tháng 3 năm 1990 do Trung tướng Phạm Thanh Ngân ký, quyết định chuyển vị trí đóng quân của Trường Trung cao Không quân về phường Khương Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
 Ngày 15/05/1991, Thống nhất liên kết đào tạo kỹ sư và nghiên cứu khoa học giữa Trường Trung cao Không quân và Viện Kỹ thuật Không quân.
 Ngày 1/10/1991, Ngày 1 tháng 10, Nhà trường đã hoàn thành việc thiết kế và lắp đặt sở chỉ huy học tập phục vụ cho diễn tập chỉ huy tham mưu cấp trung đoàn, sư đoàn tại trường.
 Tháng 10/1991, Thượng tá – Phó tiến sĩ Nguyễn Phúc Ninh – Trưởng Khoa Cơ bản– Cơ sở được Nhà nước phong tặng học hàm Phó giáo sư. Đây là đồng chí giáo viên đầu tiên của nhà trường được nhận vinh dự này.
 Ngày 31/12/1994, Bộ Quốc phòng ban hành Quyết định sô 932/QĐ-QP về việc thành lập Học viện Không quân trực thuộc Quân chủng Không quân trên cơ sở hợp nhất Trường Trung cao Không quân với Hệ sỹ quan tham mưu sơ cấp (kể cả sĩ quan lái máy bay) của Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật Không quân”
 Ngày 3/1/1995, Học viện Không quân liên kết đào tạo với Học viện Kỹ thuật Quân sự đào tạo, chuyển cấp, chuyển loại kỹ sư hàng không cho Cục Hàng không dân dụng Việt Nam theo đề nghị của họ.
 Ngày 20/12/1995, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 838/TTg về việc giao nhiệm vụ đào tạo bậc đại học cho Học viện Không quân.
 Ngày 17/09/1997, Quân chủng Không quân đề nghị Bộ Quốc phòng chuyển giao việc chủ trì đào tạo kỹ sư hàng không từ Học viện Kỹ thuật Quân sự sang Học viện Không quân.
 Ngày 14/11/1998, Tư lệnh Quân chủng Không quân làm tờ trình đề nghị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét, cho phép Học viện Không quân được tổ chức đào tạo cao học kỹ thuật hàng không và cao học khoa học quân sự không quân .
Học viện Phòng không- Không quân
 Năm 1999, khi hai quân chủng Phòng không và Không quân sáp nhập lại thành Quân chủng Phòng không-Không quân. Ngày 15/10/1999, Học viện Phòng không - Không quân được thành lập trên cơ sở sáp nhập hai Học viện:
 Học viện Không quân :đường Trường Chinh, Hà Nội,
 Học viện Phòng không:xã Kim Sơn và xã Trung Sơn Trầm, thành phố Sơn Tây, Hà Tây.
Đại tá Đinh Văn Bồng- nguyên Giám đốc Học viện Không quân được Bộ Quốc phòng chỉ định làm Giám đốc Học viện Phòng không - Không quân. Tổ chức biên chế của Học viện bao gồm: Ban giám đốc, 6 phòng, 12 khoa, 4 hệ, 4 tiểu đoàn, 1 trung tâm huấn luyện thực hành. Chức năng, nhiệm vụ của Học viện Phòng không - không quân thực hiện theo Quyết định thành lập Học viện Phòng không ngày 10 tháng 3 năm 1993 và Quyết định thành lập Học viện Không quân ngày 31 tháng 12 năm 1994 của Bộ Quốc phòng. Ngày 16 tháng 7 năm 2009, Học viện Phòng không - Không quân đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 45 năm ngày truyền thống Học viện, Trung tướng Lê Hữu Đức - Phó bí thư Đảng uỷ, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân đã tới dự và phát biểu trong buổi lễ.

Trụ sở chính: Sơn Tây, Hà Tây;
Cơ sở 2: Đường Trường Chinh, Hà Nội.
 Viện Kỹ thuật Phòng không- Không quân. Trụ sở: Đường Hoàng Văn Thái, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
 Trường Sĩ quan Không quân (chuyên đào tạo phi công). Trụ sở: Thành phố Nha Trang, Khánh Hòa
Trường Sĩ quan không quân
Trường Sĩ quan không quân hay còn gọi là Trường Sĩ quan chỉ huy kỹ thuật không quân là trường đại học quân sự trực thuộc Quân chủng Phòng không- Không quân- Bộ Quốc phòng Việt Nam, chuyên đào tạo phi công quân sự, sĩ quan kỹ thuật hàng không trình độ đại học quân sự và cao đẳng kỹ thuật cho Quân đội Nhân dân Việt Nam.
 Ngày truyền thống: 20/08/1959 {ngày thành lập trường Hàng không Việt Nam}.
 Trụ sở chính: Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Lịch sử
 Ngày 20-8-1959, trường Hàng không Việt Nam được thành lập tại sân bay Cát Bi (Hải Phòng), đơn vị tiền thân là Trung đoàn 910. Khi đó, trường chuyên về huấn luyện máy bay cánh quạt và đào tạo phi công vận tải.
 Năm 1965, thời kỳ Mỹ chống phá ác liệt, trường được chuyển sang tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), tiếp tục thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo phi công chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc.
 Tháng 8-1975, trường tiếp quản sân bay Nha Trang và tại đây, trường được đổi tên thành trường Sĩ quan Chỉ huy kỹ thuật Không quân.
 Ngày 05/01/2006, Bộ Giáo dục và đào tạo giao nhiệm vụ đào tạo phi công trình độ đại học cho Trường Sĩ quan Không quân. Bằng tốt nghiệp đại học của Trường Sĩ quan Không quân thuộc văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân.
Các khoa
 Khoa Cơ bản
 Khoa Kỹ thuật Cơ sở
 Khoa Quân sự- thể thao
 Khoa Khoa học xã hội và nhân văn
 Khoa Chỉ huy tham mưu
 Khoa Máy bay động cơ
 Khoa Vũ khí hàng không
 Khoa Thiết bị hàng không
 Khoa Vô tuyến điện tử
 Trung tâm huấn luyện thực hành.

 Công ty Xây dựng Công trình Hàng không - ACC (Airport Construction Company)
 Công ty Thiết kế và Tư vấn xây dựng công trình hàng không - ADCC (Aiport Design Construction Company)
 Công ty sửa chữa máy bay A32
 Công ty Sửa chữa máy bay A40
 Công ty Sửa chữa máy bay A41
 Công ty sửa chữa máy bay A42
 Công ty Sửa chữa máy bay A75
 Công ty Thiết bị điện tử A45
Lịch sử
Quân chủng Phòng không-Không quân Việt Nam được thành lập ngày 22 tháng 10 năm 1963 trên cơ sở sáp nhập Bộ Tư lệnh Phòng không và Cục Không quân. Trước đó, Bộ Tư lệnh Phòng không được thành lập theo Nghị định 047/NĐ ngày 21 tháng 3 năm 1958 và Cục Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu được thành lập ngày 24 tháng 1 năm 1959.
Ngày 21 tháng 3 năm 1958, thành lập Trung đoàn ra đa cảnh giới đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam với tên gọi Trung đoàn đối không cần vụ 260. Đến tháng 9 năm 1960 đổi thành Trung đoàn ra đa tình báo 300, từ tháng 5 năm 1961 mang tên Trung đoàn ra đa 291 (còn gọi là "Đoàn Ba Bể"). Nay thuộc Sư đoàn phòng không 365.
Ngày 22 tháng 6 năm 1958, thành lập Trung đoàn pháo phòng không 230 ("Đoàn Thống Nhất"), trang bị pháo 57 mm đầu tiên của quân đội. Nay thuộc Sư đoàn phòng không 367.
Ngày 25 tháng 4 năm 1959, thành lập Trung đoàn pháo phòng không 280 ("Đoàn Hồng Lĩnh"). Nay thuộc Sư đoàn phòng không 361.
Ngày 1 tháng 5 năm 1959, thành lập Trung đoàn không quân vận tải đầu tiên: Trung đoàn 919.
Ngày 3 tháng 2 năm 1964, thành lập Trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên số hiệu 921 ("Đoàn Sao Đỏ") với 32 chiếc máy bay chiến đấu MiG-17, 4 chiếc máy bay MiG-15. Từ tháng 4 năm 1965 chuyển sang máy bay MiG-21.
Ngày 7 tháng 1 năm 1965, thành lập Trung đoàn tên lửa phòng không đầu tiên: Trung đoàn 236 ("Đoàn Sông Đà"). Nay thuộc Sư đoàn phòng không 361.
Ngày 3 tháng 4 năm 1965, Không quân Nhân dân Việt Nam đánh thắng trận đầu, bắn rơi 2 máy bay F-8 của Mỹ.
Ngày 22 tháng 4 năm 1965, thành lập Trung đoàn tên lửa tầm trung 238 ("Đoàn Hạ Long"). Nay thuộc Sư đoàn phòng không 363.
Ngày 19 tháng 5 năm 1965, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Nội (từ tháng 3 năm 1967 đổi là Sư đoàn phòng không 361) và Bộ Tư lệnh Phòng không Hải Phòng (từ tháng 3 năm 1967 đổi là Sư đoàn phòng không 363).
Ngày 4 tháng 8 năm 1965, thành lập Trung đoàn Không quân tiêm kích 923 ("Đoàn Yên Thế"), gồm 2 đại đội, 17 phi công, sử dụng máy bay MiG-17.
Ngày 13 tháng 11 năm 1965, thành lập Trung đoàn tên lửa 257 ("Đoàn Cờ Đỏ"). Nay thuộc Sư đoàn phòng không 361.
Ngày 20 tháng 4 năm 1966, thành lập Trung đoàn ra đa 293, thuộc Bộ Tư lệnh Phòng không.
Ngày 30 tháng 5 năm 1966, thành lập 3 trung đoàn tên lửa phòng không 261 ("Đoàn Thành Loa"), 263, 267, thuộc Bộ Tư lệnh Quân chủng. Nay thuộc Sư đoàn phòng không 367.
Ngày 15 tháng 6 năm 1966, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Quân khu 4.
Ngày 21 tháng 6 năm 1966, thành lập Sư đoàn phòng không 367. Tiền thân là trung đoàn pháo cao xạ 367, thành lập ngày 1 tháng 4 năm 1953, chuyển thành Đại đoàn pháo cao xạ 367 ngày 21 tháng 9 năm 1954, trước đây thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh, sau này tách ra đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Phòng không (1958).
Ngày 23 tháng 6 năm 1966, thành lập Bộ Tư lệnh Phòng không Hà Bắc, đến 16 tháng 3 năm 1967 đổi tên thành Sư đoàn phòng không 365.
Ngày 23 tháng 3 năm 1967, thành lập các Binh chủng Ra-đa, Tên lửa Phòng không và Không quân.
Ngày 24 tháng 3 năm 1967, Sư đoàn không quân Thăng Long (phiên hiệu là Sư đoàn 371) tức Bộ tư lệnh không quân được thành lập, gồm các trung đoàn 921, 923, 919 và đoàn bay Z. Đây là Sư đoàn Không quân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 1 năm 1968, thành lập Sư đoàn phòng không 375 thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 4.
Ngày 27 tháng 5 năm 1968, thành lập Sư đoàn phòng không 377.
Tháng 3 năm 1972, thành lập Trung đoàn không quân thứ 3, Trung đoàn 927 ("Đoàn Lam Sơn").
Ngày 29 tháng 3 năm 1973, thành lập Sư đoàn phòng không 673 tại Trị-Thiên.
Tách thành hai Quân chủng (1977-1999)
Trong thời gian từ 16 tháng 5 năm 1977 đến 3 tháng 3 năm 1999, Quân chủng Phòng không-Không quân tách ra thành hai Quân chủng Phòng không và Không quân riêng biệt. Từ tháng 3/1999, sáp nhập lại thành Quân Chủng Phòng Không Không quân.
Sáp nhập lại thành Quân chủng Phòng Không - Không quân (1999 - Nay)
Từ tháng 3/1999, sáp nhập lại thành Quân Chủng Phòng Không Không quân.
Chỉ huy và Lãnh đạo qua các thời kỳ
Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân
 1963-1967: Phùng Thế Tài, Thượng tá
Phùng Thế Tài
Thượng tướng Phùng Thế Tài (1920-) là một thượng tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông là Tư lệnh đầu tiên của Quân chủng Phòng không - Không quân (1963-1967) và từng giữ chức vụ Phó tổng tham mưu trưởng (1967-1987).
Tiểu sử
Ông tên thật là Phùng Văn Thụ, sinh năm 1920, tại xã Văn Nhân, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây. Nhà nghèo, thuở nhỏ ông lưu lạc sang Vân Nam (Trung Quốc) kiếm sống. Năm 1936, ông được Hoàng Văn Hoan vận động và tham gia tổ chức Việt Nam Độc lập đồng minh hội hải ngoại và được cử đi học ở trường sĩ quan Hoàng Phố, tốt nghiệp với quân hàm Trung úy. Năm 1939, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử làm bảo vệ cho Nguyễn Ái Quốc, lúc này đang đóng vai thiếu tá Bát lộ quân Hồ Quang. Thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đặt cho ông bí danh là Phùng Hữu Tài.
Năm 1941, ông theo Nguyễn Ái Quốc về nước và tham gia hoạt động xây dựng cơ sở của đoàn thể Cứu Quốc của Việt Minh tại Cao Bằng. Tháng 4 năm 1944, ông tham gia công tác tổ chức vận chuyển vũ khí từ Trung Quốc về Việt Nam để tổ chức lực lượng vũ trang kháng Nhật. Khi Nguyễn Ái Quốc, với cái tên mới là Hồ Chí Minh, thoát khỏi sự quản thúc của Quốc dân đảng Trung Quốc và trở về nước vào tháng 9 năm 1944, ông lại được Việt Minh phân công công tác bảo vệ cho lãnh tụ Việt Minh. Tháng 4 năm 1945, khi lực lượngCứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân sát nhập thành Giải phóng quân, ông được cử làm tiểu đội trưởng tiểu đội Giải phóng quân Thất Khê và tham gia giành chính quyền tại Thất Khê tháng 8 năm 1945.
Sau khi giành chính quyền, ông được cử làm Ủy viên quân sự Việt Minh tại Lạng Sơn, kiêm chức Chi đội phó Chi đội Lạng Sơn. Sau khi Vệ quốc đoàn được tổ chức chính quy hóa, Chi đội Lạng Sơn trở thành Trung đoàn 28, ông được giữ chức vụ Trung đoàn trưởng. Năm 1947, ông được cử làm Ủy viên quân sự trong Ủy ban Hành chính Kháng chiến Hà Nội. Năm 1951, khi Đại đoàn 320 được thành lập, ông được cử về giữ chức vụ Đại đoàn phó. Cuối năm 1952, ông đổi lại tên là Phùng Thế Tài với lý do "Hồi đó Bác Hồ đặt tên Hữu Tài cho mình là có ý của Bác, nhưng mình nghe người ta bảo gọi Hữu Tài dễ sinh ra kiêu căng tự phụ, thiếu khiêm tốn, nên cuối năm 1952, mình xin Bác cho đổi lại là Phùng Thế Tài và Bác đã đồng ý".
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 9 năm 1954, ông được cử làm Đại đoàn trưởng Đại đoàn Pháo binh 349 vừa được thành lập (sau đổi thành sư đoàn). Năm 1958, ông được phong quân hàm Thượng tá. Từ tháng 11 năm 1961 đến tháng 11 năm 1962, ông giữ chức Hiệu trưởng trường Sĩ quan Pháo binh, kiêm tham mưu trưởng Binh chủng Pháo binh. Tháng 12 năm 1962, ông là Tư lệnh Binh chủng Phòng không. Năm 1963, Quân chủng Phòng không - Không quân thành lập, ông được cử giữ chức Tư lệnh đầu tiên của quân chủng này. Năm 1967, ông được phong quân hàm Đại tá và cử giữ chức vụ Phó tổng tham mưu trưởng. Ông giữ chức vụ này trong 20 năm cho đến khi về hưu vào năm 1987.
Bên cạnh các chức vụ trong quân đội, ông còn kiêm một số chức vụ dân sự. Trong thời kỳ chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Không quân Mỹ, ông kiêm chức vụ Trưởng Ban phòng chống bão lũ trung ương. Năm 1976, khi Tổng cục Hàng không Dân dụng của Việt Nam thống nhất được thành lập, ông kiêm chức vụ Tổng cục trưởng cho đến năm 1978.
Ông được nhà nước Việt Nam tặng thưởng các Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất và hạng Ba, Huân chương Chiên công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất...
Ông được phong quân hàm Thượng tá (1958), Đại tá (1967), Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1980), Thượng tướng (1986).

 1967-1969: Đặng Tính, kiêm Chính ủy, Đại tá

 1969-1977: Lê Văn Tri, Đại tá

Thời kỳ 1977-1999 tách thành 2 Quân chủng. Từ ngày 3 tháng 3 năm 1999, sáp nhập trở lại thành Quân chủng Phòng không - Không quân.
 1999-2002: Nguyễn Đức Soát, Trung tướng
 2002-2006: Nguyễn Văn Thân, Trung tướng
 Từ 12/2006 đến nay: Lê Hữu Đức, Thiếu tướng, Đại biểu Quốc hội Khóa XI
[sửa]Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân chủng Phòng không - Không quân
 1963-1971: Đặng Tính, Đại tá
 1971-1977: Hoàng Phương, Đại tá
Thời kỳ 1977-1999 tách thành 2 Quân chủng. Từ ngày 3 tháng 3 năm 1999, sáp nhập trở lại thành Quân chủng Phòng không - Không quân.
 1999-2001: Nguyễn Văn Phiệt, Trung tướng, Bí thư Đảng ủy Quân chủng
 2001-2004: Hán Vĩnh Tưởng, Trung tướng, Bí thư Đảng ủy Quân chủng
 2004-2005: Nguyễn Mạnh Hải, Thiếu tướng, Bí thư Đảng ủy Quân chủng
 Từ 10/2005 đến nay: Phương Minh Hòa, Thiếu tướng, Chính ủy Quân chủng, Ủy viên Trung ương Đảng
Tư lệnh Quân chủng Phòng không
 1977-1983: Hoàng Văn Khánh, Đại tá, Thiếu tướng (1979)
 1998-1999: Nguyễn Văn Thân, Trung tướng, Phụ trách Quân chủng
Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân chủng Phòng không
 1977-1980: Nguyễn Xuân Mậu, Đại tá
 1980-1983: Hoàng Văn Khánh, Thiếu tướng
Tư lệnh Quân chủng Không quân
 1977-1986: Trung tướng Đào Đình Luyện, kiêm Chính ủy (đến 1980)
 1986-1989: Thiếu tướng Trần Hanh
 1989-1996: Trung tướng Phạm Thanh Ngân
 1996-1997: Thiếu tướng Nguyễn Văn Cốc (Quyền Tư lệnh)
 1997-1999: Thiếu tướng Nguyễn Đức Soát
Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân chủng Không quân, Phó tư lệnh Chính trị
 1977-1980: Đại tá Đào Đình Luyện
 1980-1987: Thiếu tướng Chu Duy Kính
 1987-1989: Thiếu tướng Phạm Thanh Ngân
 1989-1996: Thiếu tướng Phạm Tuân
 1996-1999: Thiếu tướng Hán Vĩnh Tưởng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét